CÓ MỘT NƠI LÁ MÃI XANH (phần I)
TRẦN XUÂN AN
CÓ MỘT NƠI LÁ MÃI XANH
Phần I
tiểu thuyết
hoàn toàn hư cấu
(tác phẩm tham dự cuộc thi tiểu thuyết 1998 – 2000,
do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức)
1998
tác giả giữ bản quyền
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
1999
(có kiểm duyệt vài dòng,
gác lại bài bạt của Inrasara)
CHƯƠNG MỘT
1
Một buổi sáng nào đó đã lâu, Niên cùng Trần Nguyễn Phan ghé vào Lá Xanh này. Từ hôm ấy, khi một mình, khi cùng Phan, anh thỉnh thoảng đến với quán cà phê có cái tên làm dịu lòng người, có bao giai điệu âm nhạc rất nghìn năm và mới mẻ, lại có một khoảng sân rợp bóng mát: Lá Xanh! Sau dăm bảy lần, Phan biến mất!
Niên cũng tự biết, đâu phải chỉ vì những thứ anh nghĩ đã là hiếm quý ở thành phố anh đang sống. Ở đấy, anh còn cảm nhận được chút ngọt ngào của tình bạn mới.
Cúc Tần, Hòa Bình và cả bé Cảo Thơm nữa, đã phả vào tâm hồn Niên một cảm giác tươi tắn, đằm thắm về một điều gì thật khó gọi tên, cơ hồ là hạnh phúc. Hạnh phúc? Ở tuổi bốn hai, Niên không thể ngờ trên đời này có một dạng hạnh phúc lạ lùng đến vậy. Hạnh phúc của một người khách trong một quán cà phê yên tĩnh, ven con hẻm rộng, thường là ít người vào buổi sáng!
Sáng nay, ngồi nhìn màu hổ phách của hai túi trà, được làm bằng giấy thấm, tan dần trong li nước sôi trong vắt, nghe từng giọt đàn tranh rơi lẫn với tiếng đàn bầu chùng xuống đến hẫng lòng, rồi vút lên đến chơi vơi trái tim, Niên bâng khuâng mỉm cười. Anh không còn ngẩn ngơ với cảm giác hạnh phúc dịu dàng, tinh khiết ấy nữa. Anh đang ngấm, đang tan ra bởi một không khí, một khung cảnh ngọt mát của Lá Xanh.
Cũng như mọi lần, Cúc Tần đón tiếp anh bằng một nụ cười rất sáng. Ban đầu, ánh sáng ấy chỉ nở ở đôi môi với hàm răng đều đặn bóng ngời. Dần dần, khi đã quen nhau, ánh sáng như nét duyên thầm lại bừng lên nơi đôi mắt. Và lúc này, Niên mong chẳng còn một người khách nào ghé quán nữa, để Cúc Tần có thể rảnh rỗi ngồi chuyện trò cùng anh.
Với Cúc Tần, tự bao giờ chẳng rõ, cũng như Hòa Bình - em dâu họ, Cảo Thơm - cháu trai của cô, cô xem Niên như người nhà nhưng cũng không phải là người nhà.
Cúc Tần rời quầy, đến ngồi đối diện với Niên. Hai nụ cười gặp nhau.
- Cuốn tiểu thuyết ấy anh vẫn viết tiếp chứ? - giọng Sài Gòn của Cúc Tần nghe ngòn ngọt.
Niên gật đầu, vẫn nhìn vào gương mặt xinh đẹp của cô giáo.
- Em có dặn anh mang tới cho em đọc thử. Không hiểu sao, có lẽ do một kỉ niệm hồi còn nhỏ, em thích đọc ngay vào bản thảo. Bộ anh quên mang theo rồi sao? Vô tình quá hén!
Niên mỉm cười, khẽ cắn vào môi, ngẫm nghĩ:
- Quên sao được lời đề nghị của Cúc Tần! Có điều, anh đang chữa lại đôi chút. Phần hai và ba đã viết xong đâu. Đa số người ta vẫn thích cái gì đã trọn bộ.
Cúc Tần chỉ tay vào li trà của Niên:
- Anh uống nước đi. Có lẽ được rồi đó.
Niên khoắng đường, vắt múi chanh vào li.
- Nhưng, những gì chưa hoàn tất vẫn hay chứ - Cúc Tần lại nói, cố tránh dùng hai chữ ''dở dang'' - Em vẫn nghĩ, tiểu thuyết cũng cần phải hay từng chữ, từng chương một.
Niên khẽ giật mình. Anh mỉm cười:
- Cúc Tần hơi khó rồi đấy, dẫu đúng là...
- Không, không phải... - Cúc Tần nói nhanh, rồi chợt kìm lại. Cô mỉm cười, lắc đầu, buông lửng câu. Có lẽ cô muốn nói rõ thêm nhưng lại chỉ mỉm cười. Cúc Tần bất giác nhắc Niên - Nước sôi nguội rồi, anh rót vào li đá lạnh đi.
- Anh cũng nóng lòng sốt ruột lắm, như nước sôi này. Những ý định tiểu thuyết như trà đã qua nhiều công đoạn, đang ngấm bởi sự nung nấu, đang tan ra thành chữ, thành câu.
Tiếng cười Cúc Tần bật lên trong trẻo:
- Anh ví von ngộ nghĩnh thật đó. Vậy thì mời anh Niên uống nhấm nháp cảm xúc, ý tưởng của chính mình, cho tâm thức đầy lại, phong phú thêm.
Niên hơi ngượng. Đã bao lần anh mời Cúc Tần cùng uống chút gì cho vui, nhưng cũng bao lần anh chỉ trở thành và mãi trở thành khách. Niên đành chấp nhận độc ẩm trong trường hợp này.
Cúc Tần bỗng thêm rạng rỡ ánh mắt vì một liên tưởng thú vị mới nẩy ra trong đầu cô:
- Nhà văn tự hái trà, sao chế và tự uống lấy. Tất cả đều diễn ra trong khu vườn, tại nhà mình, trang viết mình. Còn người đọc chỉ là người xem nhà văn tự uống lấy mình. Mỗi chữ là một cọng trà, hạt bột trà... Sướng nhỉ, mỗi ngày anh Niên từ sáng sớm đã ra khu vườn của chính anh để hái gần ngàn chữ.
- Đó là một ẩn dụ hay... - Niên nói - Có điều, li trà này ai hái, hái ở đâu, sao chế, đóng gói thế nào, còn Cúc Tần pha, chuẩn bị sẵn cả nước đá, chanh, đường, anh chỉ việc nhấm nháp từng ngụm. So sánh vậy kẹt cho anh quá. Chắc phải mang cả khu vườn trà tưởng tượng đến quán Lá Xanh này, cùng Cúc Tần sao tẩm, chế biến và cùng uống để bảo đảm vấn đề bản quyền, nhất là trong thời buổi tranh đoạt, chụp giật này. Em pha, nghĩa là xuất bản giùm nhau luôn?
Niên tưng tửng nói. Cúc Tần phá ra cười.
- Cúc Tần đồng ý không? - Niên nhân thể, lém lỉnh hỏi dồn, cố lướt qua thoáng xấu hổ cho bao cây bút bất lương.
Cúc Tần đỏ mặt vì những câu ngỏ ý chờn vờn của Niên:
- Sợ chị ở nhà đăng báo trên mục ''Nhắn Tin'', truy tìm mẹ mìn. Khi không em bị mắc oan là mẹ mìn! Em không dại vậy đâu! Thôi, đừng để ẩn dụ bước cà thọt vào câu chuyện.
- Ờ, anh chỉ là con cóc. Hãy bắt cóc đời nhau...
Cả hai cười giòn giã. Tiếng cười Cúc Tần bỗng nghẹn lại khi cô nghĩ hai chữ ''cà thọt'' vừa dùng có gì đó hơi bất nhẫn.
- Cười gì như pháo cưới thế? Cho cười với đi! - Hòa Bình dắt xe từ nhà ra, vui vẻ góp lời.
- Hòa Bình đi đâu vậy? - Cúc Tần hỏi.
- Em đi bưu điện gởi thư ra Hà Nội - giọng Hòa Bình pha Bắc, cô trả lời khi đạp cần khởi động chiếc xe gắn máy - Anh Niên ngồi chơi nhé.
Niên nhìn đồng hồ: mười giờ mười lăm. Anh nhờ Cúc Tần tính tiền nước. Hai người bước đến quầy.
Khi dắt xe ra khỏi cổng quán, anh ngoảnh lại, đưa một tay chào Cúc Tần. Cúc Tần, thon tròn trong bộ áo quần bằng lụa màu ngà, đứng dưới gốc khế giữa sân rợp mát cũng đưa một tay lên chào:
- Mai lại đến quán nghe anh Niên!
Niên gật đầu. Một lần nữa Niên biết lòng mình đang xao xuyến trước hình ảnh anh mới thu vào trái tim mình. Cúc Tần, cô giáo trung học dạy Việt Văn, ba mươi hai tuổi, độc thân, xinh đẹp, thông minh, dịu dàng thế kia... Niên biết làm sao được! Anh mặc cho nỗi xao xuyến ấy cứ dâng lên trong ngực anh niềm khát vọng, hân hoan, lẫn với hối tiếc.
Dẫu sao, Niên cũng cảm ơn Lá Xanh này, nơi đã cho anh những buổi sáng tuyệt vời, chút tuyệt vời có lẽ, không dám khẳng định nó ra sao ở Cúc Tần, với riêng anh, là chút tuyệt vời anh tin suốt đời mình anh chẳng bao giờ còn tìm thấy ở nơi nào khác.
2
Hơn chín tháng nay rồi, trước và sau tết nguyên đán, mỗi tuần vài ba lần Niên đến với Lá Xanh. Từ nhà anh, qua hai quãng đường ngắn, vào thêm độ hai trăm thước lối hẻm khá thoáng rộng, là quán cà phê vườn của hai chị em Cúc Tần. Bây giờ, họ đã hiểu về nhau khá rõ.
Bảo là kỹ sư xây dựng, thường công tác xa, đâu tận Bình Chánh, Cát Lái gì đó. Có khi Bảo phải ở lại công trường suốt cả tuần lễ. Bảo là em cậu cô với Cúc Tần, là chồng của Hòa Bình. Bảo và Hòa Bình đã có một cháu trai đang học mẫu giáo, lớp chồi, loại bán trú.
Cúc Tần với Hòa Bình cùng dạy ở một trường, được xếp thời khóa biểu một người dạy ca sáng, một người dạy ca chiều, để thay phiên nhau trông nom quán Lá Xanh. Thỉnh thoảng, vẫn có một, hai buổi sáng hoặc buổi chiều họ cùng được ở nhà trong mỗi tuần. Cũng có khi phải treo bảng xin tạm nghỉ một buổi để dự họp hội đồng giáo viên.
Mấy năm nay, Cúc Tần về ở hẳn với gia đình người em họ để tiện việc cùng Hòa Bình bán cà phê, cũng để tiện đường đi dạy. Ngôi trường họ đang dạy học khá gần nhà của Bảo.
Niên thật lòng muốn sáng nào cũng đến với Lá Xanh, nơi anh đã cảm nhận một dạng hạnh phúc rất lạ của người khách quen thân. Nhưng anh phải tự kìm chế lòng mình.
Sáng nay, như mọi buổi sáng khác, Niên theo lệ thường thức dậy từ bốn giờ, lúc ngoài trời còn tối mịt và ngoài đường tiếng xe cộ bắt đầu rộ dần, anh pha cà phê, tập thể dục trong khi chờ cà phê nhỏ hết xuống li, rồi bắt đầu nhấp ngụm đầu tiên, bắt đầu viết cho đến lúc phải chở con đến trường tiểu học. Sau đó, anh ngồi trông cửa hàng sách báo cũ cho vợ đi chợ. Giữa những kệ sách báo từ đời tám hoánh đến sách báo mới phát hành đã trở thành cũ, Niên vừa đọc lại bản thảo mới viết, vừa đợi khách vào lục lọi, chọn lựa, và trả tiền. Nhưng giờ ấy, đa số khách mê sách báo còn ngái ngủ vì chong đèn thức khuya.
Khoảng tám giờ, Bông Trang đi chợ về, xuống bếp cho rau cá gì đó vào tủ lạnh rồi lên trông hàng. Tám giờ rưỡi, Niên đã có thể hoàn toàn tự do rong chơi đâu đó với bạn bè văn nghệ cho đến mười giờ. Lúc ấy Niên phải có mặt ở nhà cho vợ nấu cơm trưa.
Lá Xanh, quán cà phê xanh, rợp bóng mát của hai cây khế, và nhiều chậu hoa kiểng luôn được tắm tưới, nơi có cô giáo Cúc Tần, nơi đã cho Niên hít thở một loại không khí thật tươi, luôn luôn mới, khác hẳn cửa hàng mốc meo, ố xỉn của anh - thứ kho sách dẫu có cuốn rất quý nhưng vẫn được xem là phế thải, thứ thư viện tạp nham.
Đôi khi, anh đã mỉm cười nghĩ, Thiên Đường là có thật, đâu có xa, quá gần nhà anh, nhưng anh mãi xa vời ngóng và tìm. Lá Xanh!
Sáng nay, trên đường đến với Lá Xanh, bỗng dưng Niên buồn lòng nghĩ, Thiên Đường có thật và không xa, nhưng anh chỉ là khách, mãi là khách của Thiên Đường ấy.
Khách của Thiên Đường! Nghe sang biết chừng nào, có điều, đấy phải chăng chỉ là hào nhoáng của từ ngữ! Nhưng dẫu sao, Niên đã có gia đình riêng, cái tổ ấm được xây bằng mớ rác cũ, đã vào tuổi bốn hai, lòng đâu dễ tự huyễn hay bị huyễn nữa!
Tuy biết thế, cấm sao được xao xuyến cứ cồn lên trong tim khát vọng, bâng khuâng, hân hoan, hối tiếc, khiến Niên hiểu anh đâu còn là anh, một Niên cách đây chừng chín tháng.
Chín tháng trước đây, Niên tự tin, khiêm tốn một cách đầy tự hào, dẫu cực nhọc viết lách, suy tư nhưng lòng vẫn thanh thản biết bao. Từ độ quen Cúc Tần, Niên đã bắt đầu bối rối, yêu đời hơn, cũng nản lòng hơn, lại bắt đầu lẩn quẩn, vô vọng, bế tắc. Anh nghĩ mình rõ chán! Thôi thì cứ mặc, mặc tất, cho cuộc đời bớt buồn tẻ, đơn điệu. Đôi chân mặc cho cảm xúc đẩy đi.
Không biết đây là lần thứ mấy, Niên vẩn vơ ôn lại những khoảnh khắc ở Lá Xanh, những câu chuyện đùa cợt, đôi khi chẳng đâu vào đâu, nhưng quá đỗi ngọt ngào với Cúc Tần. Niên cơm nước xong, ngồi ngó hàng cho vợ dọn rửa và nghỉ trưa, thờ thẫn xem lại bản thảo, đầu óc cứ suy nghĩ vẩn vơ.
Từ căn nhà đầu hẻm, cách lề đường hơn hai chục mét, Niên nhìn ra hai làn xe chạy ngược xuôi trong nắng trưa nóng bỏng. Thật ra cái nhìn của anh đang hướng vào trái tim mình. Niên thấy mình đang nôn nao, bổi hổi bồi hồi và đau đáu buồn nữa. Có lẽ anh nom buồn cười, rất buồn cười như một gã con trai mới lớn.
Niêm mỉm cười một mình, lại thở dài.
Nếu Lá Xanh chưa hề có một Cúc Tần, quán ấy liệu có gợi cho Niên ý niệm về Thiên Đường không nhỉ - Niên tự hỏi. Bỗng anh nhận ra chính anh đang gợn lên trong lòng thoáng lạnh lùng của sự phân tích. Đúng rồi, Cúc Tần ở đâu, nơi ấy trở nên Thiên Đường, một Thiên Đường của riêng anh.
Từ gã con trai mới lớn, Niên thoắt trở lại một người đàn ông bước vào tuổi bốn hai. Mới ngơ ngáo tập tành yêu đương thoắt đã già giặn từng trải.
3
Năm giờ sáng, lúc chuông chùa và chuông giáo đường ngân nga, lan tỏa trên tầng không, mặc xe cộ ồn ã dần trên mặt đất, Cúc Tần với Hòa Bình để yên cho bé Cảo Thơm tiếp tục ngon giấc, họ rời giường.
Bật ngọn đèn hiên, ánh sáng từ mái đúc hắt ra hòa với ánh sáng ngọn đèn từ lối hẻm chiếu vào, hai chị em tập bài thể dục khởi động cho một ngày. Sau đó, nối ống cao su vào vòi nước, họ thay nhau tưới cây. Trong lúc Hòa Bình đun hai ấm nước sôi lớn để rót vào bình thủy, chuẩn bị để phục vụ khách, rồi làm bữa sáng cho cả ba người, Cúc Tần vào bàn làm việc xem lại giáo án, rồi chấm nốt bài tập cho học sinh. Cúc Tần thường phải làm những công việc đầu ngày thay cho Hòa Bình để Hòa Bình chuẩn bị đưa con đến trường mẫu giáo trước khi cô đến trường của cô. Cúc Tần dạy buổi chiều, nên còn cả buổi sáng để lo công việc của một cô giáo trong khi bán cà phê. Nhưng sáng nay, số bài tập làm văn rán chấm mấy hôm vẫn còn lại khá nhiều. Cúc Tần phụ trách ba lớp khối mười một, gần một trăm rưởi bài luận làm hai tiết. Và đang đến tiết trả bài, sửa bài cho học sinh theo đáp án của cô đã được tổ trưởng duyệt với đề. Ngoài những lần làm ngoại khóa cho học sinh, tuần trả bài luận là tuần cô hơi bận, có thể là bận nhất trong năm học, dù đã chấm dần từ một tháng trước.
Trong khi bổ sung ngoài lề một ý mới cho đáp án, Cúc Tần thầm cảm ơn Niên. Những lần chuyện trò với anh, đôi khi cô thu nhận được những ý tưởng lạ, chỉ người làm công việc viết văn mới hiểu bằng chính lao động của họ.
Còn khoảng hai mươi bài phải trả chiều nay, Cúc Tần đành đậy nắp bút đỏ để ra ăn sáng với hai mẹ con Hòa Bình.
Thấy Cúc Tần bước tới bàn ăn, Cảo Thơm mách:
- Mẹ Hòa Bình cho Cảo Thơm, với cô Cúc Tần , ăn trứng tráng trộn với nhựa đường của mấy bác công nhân nè.
Hòa Bình với Cúc Tần cười ngặt nghẽo. Hòa Bình đỏ mặt bởi nước da có chút miền núi của bà ngoại Cảo Thơm nơi cô rất dễ biểu lộ cảm xúc.
- Mẹ xin lỗi cưng. Ăn đi con, không phải nhựa đường đâu, chỗ cháy mẹ bỏ ra đây rồi. Hơi già lửa một tí mà, vì mẹ sơ ý, do vội. Ngoan, ngoan nào...
Nói thế nhưng Cảo Thơm cũng cho hết phần của nó vào bụng.
Cúc Tần đứng ở quầy nhìn hai mẹ con Hòa Bình dắt xe ra cổng. Nắng vàng tươi tắn rải đầy buổi sớm thật dễ thương.
Lá Xanh không phải là quán bán cà phê cho những người đi làm sớm. Cúc Tần khẽ mở băng nhạc hòa tấu các bản hiện đại bằng các nhạc cụ cổ của dân tộc, loại nhạc đặc trưng của Lá Xanh.
Trong khi ngồi ở quầy chờ người khách đầu tiên trong ngày, Cúc Tần lại mở nắp bút đỏ chấm bài tiếp.
Còn năm bài luận nữa, cô chậm rãi đếm. Thôi, gác lại, vào điểm cho học sinh lớp kia trên cuốn sổ điểm cô đã mượn về nhà tiết trước. Cô lại ghi chú thêm vào giáo án trả bài luận riêng từng lớp.
Cúc Tần mong sáng nay Niên lại đến. Gần tám giờ rồi. Nếu sáng nay Niên đến, cô sẽ chấm bài giấc trưa, trước khi đến trường. Cô tìm lại một số bài luận cô đã chấm và có ý định bổ sung thêm lời phê. Cúc Tần mỉm cười đọc lại bài một cô bé. Cô bé này đang bắt đầu rung động trước chàng trai nào hay sao mà lạc đề đến thế. Bài đang phân tích một nhân vật nữ gắng đấu tranh tăng năng suất ở một phân xưởng, bỗng sa đà vào bình một đoạn thơ tình chính tự cô bé ấy liên hệ. Cúc Tần run tay trước điểm bốn, con điểm dưới trung bình. Cô bé này, Cúc Tần hình dung nhớ lại, có đôi mắt to tròn long lanh, ngồi gần tường bên phải phòng học.
Trong tiếng nhạc khẽ ríu rít vang, Cúc Tần mỉm cười với ý nghĩ: Cô bé có đôi mắt luôn cười nhưng long lanh như rưng rưng ấy đang đi lạc vào tình yêu rồi chăng, và có lẽ không tìm được lối về, vì bài làm thiếu cả phần kết luận!
Mười bảy tuổi của Cúc Tần, ngày ấy, đã có bao giờ cô bị tình yêu đầu đời dẫn dụ đến miên man, lạc bút thế này chưa...
Lúc này, cô đang chờ Niên đến!
4
Sáng hôm đó, pha đủ các loại thức uống, từ cà phê, trà đen, ca cao đến trà đá, cho năm bàn khách, ngồi đợi tới trưa, Niên vẫn chưa đến. Cúc Tần cũng đã chấm hết bài, đã vào điểm xong xuôi, lại nhìn chiếc máy điện thoại, muốn bấm số gọi Niên, nhưng cô ngần ngại quá. Lúc này đã chín giờ rồi, đâu phải giờ Niên trông hàng như thường lệ. Gọi đến, chắc chắn sẽ chỉ gặp Bông Trang, và dẫu gặp Niên, cô cũng không muốn. Không. Nhưng đúng vậy, Cúc Tần không muốn ai hiểu rõ lòng mình cả, kể cả Niên, kể cả Hoà Bình. Cúc Tần thương cho lòng tự ái của mình. Không. Không thể tự hạ mình đến thế! Nhưng đã hứa hẹn gì đâu, đã hẹn hò gì đâu... Cúc Tần mong điện thoại sẽ reo lên. Cũng đừng hòng Cúc Tần sẽ bắt máy ngay. Phải reo đủ ba, bốn hồi kia. Và dẫu đầu kia dây đúng là Niên, Niên cũng chỉ nghe giọng trả lời điềm đạm, còn có thể hơi lạnh nhạt của Cúc Tần, khác với khi gặp nhau trực tiếp ít ra một bậc! Đúng là trái tim cô, và biết đâu, cả trái tim Niên nữa, đã rơi vào một tình huống thật khó xử! Cúc Tần chẳng biết làm sao cả. Cô còn là một nhà giáo nữa. Có lẽ bây giờ chả là gì, nhưng chính nghề nghiệp mô phạm không cho phép cô cởi mở tình cảm của mình một cách phóng túng. Đúng mức và đúng mực. Như đường chỉ đỏ trên trang vở học trò. Như người thợ mộc tính toán để ghép mộng. Sao đành tự loại bỏ!
Cúc Tần cũng nghiệm ra một điều, tình cảm cứ như là sóng, dẫu là sóng dữ dội hay dịu dàng, vẫn có điểm đỉnh và điểm chân, từ khơi xa cho đến khi vào bờ. Dù sáng nay, cô nóng lòng ngỡ chưa từng như thế, ngồi đợi Niên, nhưng bên ngoài nom vô cùng thanh thản, nhìn nắng vàng từ ngoài kia, nơi vách nhà bên kia hẻm, lan dần vào sân, đến tận bậc thềm với dăm đốm nhấp nhóa.
Cúc Tần bước lui sau căn bếp vốn lồi ra bên đáy hông nhà, chuẩn bị cơm trưa. Qua cửa sổ, cô có thể trông xe cho khách, có thể thấy được khách từ cổng vào.
Cúc Tần thở dài, thấy mình đa đoan quá.
Với Niên, cô đắm say và quý trọng đến thế, sao lúng túng và nản lòng đến thế!
Cúc Tần sực nhớ đến Điệp. Cô thương Điệp, nhưng sao thấy tâm hồn mình dửng dưng đến mức lạnh băng, dù một thời đâu phải chưa yêu nhau, hơn nữa, đã cùng nhau bước một bước quan trọng để đến lễ cưới.
5
Niên hơi mừng khi thấy Lá Xanh sáng nay không đông khách lắm, chỗ ngồi quen thuộc ở góc sân tiếp giáp với hành lang nhà vẫn chưa ai ngồi. Anh thích ngồi ở đó, vì hành lang cũng là nơi đặt quầy, nơi có nhiều dò phong lan, mỗi lần ngắm,lại phát hiện ra đôi nét thay đổi, như thêm một rễ non, một chấm mầm lá, một cành hoa.
Niên cũng suýt bật cười khi thấy chính anh là một người khách được chủ quán quý mến nhất, nhưng lại là một kẻ ích kỷ nhất. Anh ước chi Cúc Tần cũng ích kỷ như vậy. Quán chỉ hai người với những giờ khắc rất riêng. Ồ, lẽ nào có trường hợp ích kỷ đồng nhất với hy sinh! Đã dọn quán bày hàng, ai chả muốn được đắt khách. Hy sinh bớt một ít thu nhập để chuyện trò riêng, rất riêng, với Niên... Ồ, buồn cười thật, không phải khách quý, anh là người khách tệ hại nhất.
Niên nhìn ra nắng, lại nhìn hoa khế tím lác đác rụng. Anh rùng mình thương xót một vẻ đẹp buồn của những bông hoa nhỏ bé đang rơi. Rơi, vì không thể kết quả!
Niên thấy anh hơi đa cảm, và đã hơi sốt ruột. Có lẽ Cúc Tần đang pha nước uống cho khách. Niên nhìn quanh đôi bàn, thấy nước uống các loại đã được bưng ra từ lâu, có li đã cạn. Niên đứng dậy, thoáng thấy Cúc Tần đứng sau cửa sổ sát với một cạnh của quầy (khung cửa sổ phòng khách của nhà vốn ghép với quầy hình chữ L thành một chữ U).
Từ khung cửa sổ phía sau quầy, Cúc Tần nhìn anh mỉm cười. Nụ cười vốn rất sáng, hôm nay, không niềm nở nữa. Niên ngơ ngác.
- Cúc Tần!
Cô bước ra:
- Anh Niên dùng gì, để em pha - giọng Cúc Tần không biểu lộ một tình cảm nào.
Niên ngước mắt lên, thấy Cúc Tần vẫn xinh đẹp, sao hơi nghiêm, lạ thế!
- Sao vậy? - Niên bối rối.
- Vẫn như mọi lần nghen - cô mỉm cười, Niên thấy hình như Cúc Tần cười nụ cười giao tiếp thôi. Anh nghe một cảm giác hụt hẫng.
Tiếng một chiếc li rơi vỡ trên nền hành lang, dưới chân quầy. Niên chạy vào nhặt hộ những mảnh thủy tinh. Cúc Tần vẫn không nói gì, tiếp tục pha trà cho anh.
Đang buồn rầu với những mảnh vỡ, Niên nghe Cúc Tần bật cười, tiếng cười trong trẻo và vui vẻ. Anh ngẩng mặt nhìn lên dò hỏi. Cúc Tần rạng rỡ:
- Thôi, đủ rồi, anh Niên. Để đó cho em. Nhưng muốn tỏ ra tử tế hơn thì chổi phía sau cánh cửa mở ấy - và Cúc Tần ngọt ngào trêu thêm - anh giúp luôn nghen!
Niên sững người. Aắ, cô giáo giở trò! Anh bất chợt ngoác miệng cười. Cô giáo cũng đáo để thật!
- Thưa vâng! - Niên cũng tỉnh bơ.
Cúc Tần cười thật giòn. Nãy giờ cô cố tình lạnh nhạt cho bõ ghét.
Quét dọn xong xuôi, Niên bước xuống tam cấp, ra chỗ bàn cũ. Cúc Tần đã ngồi ở đó.
- Tay anh chảy máu rồi nè.
Cúc Tần:
- Lúc anh nhặt, em đã thấy. Cảm phiền ngồi yên. Để em rửa và băng cho.
Cô vào nhà, mặc cho Niên thích thú mừng thầm nhìn theo. Cô mang ra một hộp thuốc gia đình có chữ thập đỏ.
Niên thấy tay Cúc Tần run lên khi cầm lấy tay anh, dùng bông gòn tẩm cồn lau nhẹ. Ngực Niên rộn rã. Cô xé một miếng băng dán có sẵn ga. Thật ra, chỉ một vết xước nhỏ, nhỏ hơn cả khi gọt cam lỡ tay, dẫu máu vẫn tươm ra ở lóng thứ hai ngón trỏ. Nhưng hai người vẫn băng bó cho nhau.
Niên lém lỉnh:
- Chỗ này nữa - anh chỉ vào đốt đeo nhẫn.
- Có gì đâu? - và cô đỏ mặt hiểu ý anh chàng nhà văn tinh quái này.
Hơi đểu một chút, Niên nói khá sỗ sàng:
- Vết thương ở chỗ này, Cúc Tần không thấy sao! - chợt thấy hơi tàn nhẫn với người vắng mặt, Niên nói khỏa lấp - Cảm ơn Cúc Tần... - Niên nhớ đến Bông Trang...
... Niên nhìn cô, muốn gửi vào cái nhìn ấy một điều gì. Cúc Tần hơi ngượng.
- Anh liên tưởng ngộ thật.
- Có gì đâu. Liên tưởng ngẫu nhiên thôi. Đôi khi rất đắc địa, đôi khi gây hiểu nhầm tai hại. Chỗ đắc địa lại không bị xước! - Niên mân mê ngón áp út ngay lóng tay đeo nhẫn cưới. Ở đó chẳng có chiếc nhẫn nào.
Niên thấy anh đang bỉ ổi giữa khoảnh khắc thơ mộng này, vì anh vừa trót phủ nhận vợ mình như thế.
Cúc Tần giả tảng lờ:
- Sáng nay anh Niên đến sớm, có vẻ hí hửng điều gì?
- Aắ - Niên sực nhớ - Anh có mang đến một ít bánh nóng - anh rút từ xách tay một gói nhỏ - Bây giờ chắc nguội mất rồi - Niên cố vui trở lại dẫu hơi ngượng.
- Có lẽ vì em nguội đó!
- Thưa cô giáo, có lẽ vì vậy. Nhưng sao sáng nay em lạnh tanh vậy chớ! - Niên trách.
Cúc Tần cũng không hiểu hết, có điều rất rõ là cô phải lạnh một chút để bù lại sự sốt ruột đợi Niên cách đây mấy hôm. Cô biết mình hành hạ chính mình một cách vô lí, tự nhen bùng lửa hôm nọ rồi tự tạt nước dập tắt hôm nay! Cô đã giận Niên đến độ làm rơi chiếc li khi pha trà cho anh. Bây giờ cô đã có thể mỉm cười, còn có thể cười thật tươi, thật thắm với Niên. Cúc Tần một tay cầm bánh, một tay ngửa lòng đỡ vụn bánh rơi. Cô khen bánh ngon. Niên vào quầy pha một ấm trà, mang cùng hai chiếc tách ra bàn, tự nhủ hãy quên niềm ân hận vừa rồi.
- Anh vẫn chưa mang bản thảo đến cho Cúc Tần đọc à?
- Chưa. Hai tuần nữa. Được cô giáo ngữ văn phê, chấm điểm, anh thích lắm, anh rất mừng. Nhưng vẫn ngại quá - Niên gắng dí dỏm để giữ không khí vui.
Niên rót trà vào tách cho Cúc Tần.
- Hổng dám đâu! Em đã đọc hết mười hai cuốn sách của anh, vừa truyện ngắn, vừa tiểu thuyết, và bao nhiêu bài phê bình sách anh của những nhà văn nổi tiếng một cách rất uy tín, Nam có, Bắc có, cũ có, mới có, có gì đâu anh ngại. Em làm sao dám chấm và phê văn của anh. Anh muốn em giận nữa hả, anh Niên!
- Anh không làm bộ làm tịch đâu. Càng viết, càng sợ văn mình dở đi - Niên thành thật, nhìn xuống một bông khế tím rơi trên mặt bàn.
- Anh Niên sao không thấy làm thơ?
- Có, nhiều nhất là hồi nhỏ, lúc mới tập viết văn. Nhưng thơ anh dở thật. Chỉ văn xuôi là tạm được.
- Làm nhà văn khổ thật hén? Bao giờ cũng muốn vượt lên chính mình. Như người leo dốc.
Niên gật đầu:
- Đường bằng phẳng không đi, lại vừa tự mở đường giữa bao nhiêu là gai góc, cây cối rậm rịt, vừa leo dốc!
- Thật ra, sáng tạo nào cũng gian khổ, cực nhọc. Bởi thế, thuở học sinh phổ thông, bọn em yêu quý nhà khoa học, nhà văn lắm.
Niên ngẩng nhìn Cúc Tần:
- Bộ bây giờ hết quý yêu rồi sao? - Niên cười.
Cúc Tần hiểu ý, cố phớt lờ:
- Em đã trên ba mươi - cô hơi thấy nóng ở mặt khi nói đến tuổi - Em thấy hơi lạnh rồi cái niềm ngưỡng mộ. Hình như với cái gì cũng thế. Cúc Tần cũng đã thấy tận mặt nhiều nhà văn. Có ông đến nói chuyện ở trường đại học, ở cả trường phổ thông em dạy. Và, anh Niên đó!
- Tầm thường quá, phải không? - Niên đón trước.
- Không - Cúc Tần cười, cô nói tiếp - Càng lớn, càng tỉnh ra, càng mất đi chút huyền ảo. Với cái gì cũng vậy. Đó là nỗi buồn, sự mất mát của người không còn trẻ thơ. Bao giờ nhà sáng tạo chân chính cũng đáng quý trọng. Cúc Tần dạy văn mà, anh Niên!
- Còn lâu anh mới vươn tới sự ngưỡng mộ của Cúc Tần!
- Không. Có một triết gia luôn nằm trên giường bệnh nên có cái nhìn u tối về mặt tối của con người. Đúng, nhưng buồn. ''Từ chối lời khen là muốn được khen lần thứ hai'' (1). Em nhẫn nại khen anh Niên lần thứ ba đó!
- Trà hôm nay hơi chua và đắng. Do anh muốn xin thêm chút đường. Nhưng giọng Sài Gòn của em ngọt quá rồi. Thuốc đắng bọc đường cho dã tật - Niên cười - Nhà văn cũng con người phàm tục thôi mà, kể cả người chân chính nhất. Có nhiều nhà văn lớn vẫn rất phàm trần.
- Họ là sinh vật người có trí tuệ sáng và tâm hồn đẹp. Đó là những nhà văn chân chính ấy... - Cúc Tần nói. Cô bước vào quầy tính tiền cho khách, thay luôn băng nhạc.
Niên nghèn nghẹn. Có một ý tưởng khá thô tục thường nẩy ra trong đầu anh: khi nhà thơ và người đẹp làm một động tác bình thường rất sinh vật, trần gian mất đi một chút
huyền ảo. Lúc này, trước Cúc Tần, anh không dám buông
ra chút khiếm nhã nào, dẫu anh biết đấy là tính cao nhã kiểu cách.
- Ngày xưa, ba em cũng là nhà giáo dạy Việt Văn như em bây giờ. Đúng hơn, em bây giờ đang dạy văn chương bằng tiếng Việt - Cúc Tần giải thích, và nói - Ổng còn khỏe, nhưng nghỉ dạy hơn mười năm nay rồi, hiện ở bên quận Ba với anh cả em.
- Anh biết, biết cả việc chương trình có phần văn nước ngoài.
- Ổng một đời hết mình yêu văn thơ và dạy văn thơ. Năm em mười bảy tuổi, năm tám ba thì phải, em bị bệnh sốt xuất huyết, nghỉ ở nhà, cô em có mang về một xấp bản thảo để đốt. Trước khi cô đốt, ba em và em có đọc. Ba em thương ông nhà văn ấy lắm, dẫu nhà văn ấy chưa nổi tiếng. Còn em thì mê - Cúc Tần cười - dẫu chưa thấy mặt nhà văn ấy bao giờ. Con nít ấy mà anh! - cô đỏ mặt.
Niên giật mình. Anh cố gắng bình tĩnh:
- Chuyện xảy ra ở Sài Gòn này?
- Đúng rồi, anh Niên!
Niên thở phào, nhưng lại cảm thấy tiêng tiếc rằng anh không phải là tác giả đó.
- Cô em ở đây, làm gì, Cúc Tần nhỉ?
- Người ta bảo cô em là công an! Nhưng đâu phải...
- Trời đất! Em có biết tên tác giả ấy không?
Cúc Tần lắc đầu, chẳng hiểu sao giọng cô có vẻ ngượng:
- Bản thảo viết tay mà! Chưa hoàn chỉnh, và có lẽ ngại hay sao thấy chẳng đề tên tác giả... Hồi đó, cô em nhiệt tình cách mạng lắm, em chẳng dám hỏi... Cũng bởi em đọc lén. Ba em cũng rất ghét con nít tò mò tọc mạch.
Niên cũng thấy không tiện hỏi nữa. Anh nói qua chuyện khác, nhưng rồi vẫn hỏi nhưng tránh chuyện đời riêng:
- Cúc Tần còn nhớ nội dung bản thảo không?
- Nhớ chứ. Có gì đâu. Nhưng hồi ấy người ta căm ghét sự mở rộng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa! Chỉ có thế. Ngày xưa nguy hiểm đến chết người nhưng bây giờ chỉ là trò trẻ con! Chẳng có gì đâu, chỉ là kỉ niệm, ờ, kỉ niệm của em thôi mà... ờ, mười bảy tuổi... - giọng Cúc Tần hơi xa vắng, có chút gì hơi bối rối, lúng túng.
Niên yên lặng cho cô chìm vào hồi tưởng. Anh nghĩ, anh cũng từng bị tịch thu một bản thảo, nhưng đó là chuyện nhan nhản vì đất nước này đâu chả có người viết văn làm thơ. Niên cũng muốn hỏi thêm một số chi tiết, may ra tác giả ấy là người quen của anh. Chuyện bình thường ngày ấy thôi mà!
- Rồi sau đó tác giả ấy có bị gì không? - Niên hỏi.
- Không. Nhưng không một ai biết anh ta đi đâu, có người bảo anh ta bị bệnh tim, và đã chết ở Chợ Rẫy.
- Thương quá nhỉ - Niên buột miệng.
Cúc Tần nhìn đăm đắm vào Niên. Chưa bao giờ anh bắt gặp ở cô cái nhìn như vậy. Anh cúi mặt, chợt nghe cô thở dài như tưởng niệm. Niên nghe nóng ở đầu. Tình cảm của Cúc Tần với tác giả nào đó hình như thiêng liêng quá, khiến anh không thể không im lặng để bày tỏ niềm tôn trọng.
Lúc ấy, một chiếc máy bay bằng giấy từ ngoài cổng bay vút vào, đáp xuống ngay trên bàn! Tiếng reo của Cảo Thơm vang lên ngoài cổng:
- Hay quá! Hay quá! Phi công giỏi quá!
Cả hai nhìn ra. Hòa Bình dắt Cảo Thơm đi bộ về, giỏ xách đầy cả thức ăn. Niên reo:
- Hoan hô! Hoan hô! Cảo Thơm điều khiển hay quá! Đáp đúng trên sân bay.
Cúc Tần chạy ra đỡ giỏ xách cho Hòa Bình. Niên sực nhớ, hôm nay là thứ năm, Cảo Thơm và cả mẹ được nghỉ, nên cùng đi chợ cho vài ngày tới. Anh rút từ xách tay ra gói bánh khác, chạy ra ôm chầm Cảo Thơm, hôn lên má chú nhỏ, rồi dẫn Cảo Thơm đến bàn, trong lúc Cúc Tần, Hòa Bình vào bếp.
Chuyện trò với Cảo Thơm một lúc về trường mẫu giáo, anh mới phát hiện chiếc máy bay được làm bằng trang báo có in thơ!
- Nhà thơ này được đi máy bay! - Niên nói - Một tâm hồn được lên mây, lên gió!
- A ha! Đi máy bay giấy! - Cảo Thơm cười to.
- Thơ mà! Đi mây về gió, đáp xuống bàn cà phê - Cúc Tần cười theo. Cô đã đặt thức ăn vào tủ lạnh và bước ra.
Niên chữa thẹn:
- Trêu vừa thôi nhé! Phải lên Thiên Đường như chim, phải uống cà phê để ngẫm nghĩ về con người và mặt đất chứ, thưa hai cô cháu!
Aằnh mắt của Niên chạm sâu vào ánh mắt Cúc Tần. Anh nghe trái tim mình rung lên.
Cũng đã đến lúc Niên phải về. Anh đặt tiền lên quầy, khi quay ra, thấy Bảo, với nón nhựa bảo hộ, áo quần công nhân, và ba lô sau lưng, đang cho xe chạy thẳng vào sân.
- A ha! Ba đã về! Đúng như hồi sớm mẹ điện thoại.
Bảo cười rạng rỡ, bắt tay Niên. Bảo quay sang con trai đang ôm chầm bên chân anh. Anh nhấc bổng con lên. Hòa Bình cũng vừa rửa ráy, thay áo quần xong, chạy ra. Những nụ cười chan hòa hạnh phúc.
Lát sau, Cúc Tần tiễn Niên ra cổng. Cô thoáng buồn, cũng chẳng hiểu tại sao. Niên cũng bâng khuâng, khẽ nói:
- Cúc Tần vào đi. Cảm ơn một buổi sáng.
Cúc Tần tần ngần:
- Lúc nãy, em kể chuyện văn chương thôi. Chỉ là kỉ niệm thời mới lớn. Mộng mơ thôi mà. Quên đi anh nhé.
Niên cười:
- Quên. Không nhắc nữa. Anh tin vào niềm tin của anh... Dẫu sao, vẫn muôn năm kỉ niệm của mộng mơ.
Khi bước vào, Cúc Tần bước thật khẽ, không muốn chân chạm nặng trên nền sân. Cô tế nhị xuống bếp, để gia đình riêng bé nhỏ của người em họ được quây quần hạnh phúc. Một tuần rưỡi rồi Bảo bận ở công trường. Khi không, trước hạnh phúc của hai em và cháu, Cúc Tần chạnh buồn. Chẳng hiểu sao. Cũng chẳng thể nào hiểu được chính mình, khi cô không cấm nổi lòng cô thương nhớ Niên! Cũng chỉ vô vọng thôi. Nhưng biết làm sao được! Đêm nay, cô sẽ phải đối mặt với nỗi cô đơn!
CHƯƠNG HAI
1
Chủ nhật, thành phố với những con đường như mắc cửi cơ hồ không còn giờ cao điểm, thời khắc dễ ùn tắc giao thông. Cơ hồ nhiều người dậy muộn hơn một chút vào ngày cuối tuần này.
Vẫn tám giờ sáng, Niên dừng xe gắn máy ở góc đường, ngã ba rẽ vào hẻm lớn, con hẻm đã trở nên thân thương với anh. Niên phân vân, không biết có nên vào Lá Xanh, hay kiếm một người bạn văn nghệ nào đó nhâm nhi cà phê, tán gẫu chuyện đời. Dạo này, anh thấy tất cả mọi người bạn thơ văn của anh đều nhạt! Chỉ có mỗi một Cúc Tần, chỉ cô ấy mới thu hút hết tâm trí anh, cho anh biết bao cảm xúc, hưng phấn tràn trề và trầm cảm nghẹn ngào. Cũng lạ lùng sao, chỉ Cúc Tần thôi, chỉ cô ấy mới thanh lọc giúp được trong anh những gì bụi bặm, ồn ã. Có điều anh cũng âu lo, rồi biết đâu sẽ nhàm nhạt với Thiên Đường ấy. Niên càng âu lo hơn, rồi biết đâu Thiên Đường ấy sẽ hững hờ, lạnh lẽo khi gặp mặt anh!
Lúc này, Niên dừng bánh đã mấy phút rồi, cũng chưa quyết định gì cả. Đi thẳng hay rẽ vào? Âu lo về phía mình, chỉ là nói cho ra lẽ, cho tận cùng đó thôi. Không. Cúc Tần là một Thiên Đường đã tìm thấy và chẳng bao giờ Niên có thể khát vọng một tâm hồn nào nữa. Anh vẫn đinh ninh với trái tim mình điều đó, bởi ở tuổi bốn hai anh đâu còn ngây ngô. Âu lo trĩu nặng là về phía Cúc Tần. Cô giáo xinh đẹp, dịu ngọt ấy rồi sẽ vỡ dần, mòn dần những cảm tình về anh? Liệu ở tuổi ba mươi hai, Cúc Tần có còn ảo tưởng về một người đàn ông? về một nhà văn đang hồng hộc, bấm chân xuống gai góc, sỏi đá để leo dốc, dốc cao dựng đứng ngất trời, đầy đe dọa sẽ vô vọng, tuyệt vọng?
Anh phân vân, âu lo cho sự lui tới quá thường xuyên, quá dày của anh. Chẳng lẽ bỗng dưng anh đã đánh mất hết mọi kinh nghiệm sống ở tuổi bốn hai? Nóng lòng gặp gỡ, tiếc nuối chia tay giã từ, khát khao được bên nhau không rời, nhưng có lẽ tình cảm của Cúc Tần chưa đủ chín, nên việc anh cứ đến ngày cách ngày với Lá Xanh sẽ khiến tình cảm ấy bị chín ép, hoặc xanh sượng mãi mãi. Liệu có ai bảo mình thừa kinh nghiệm với tình yêu?
Niên định lên ga xe, lao vút tới thẳng, nhưng rồi chẳng cưỡng được lòng mình, anh rẽ vào con hẻm của Lá Xanh.
2
Tình yêu là cả một quá trình thao thức, khám phá, sáng tạo, Niên chợt nghĩ thế. Và thoáng buồn, vì không phải Cúc Tần, với nụ cười rất sáng, với đôi mắt như cũng cười, đón tiếp anh. Hòa Bình, mặc bộ áo quần bà ba, tay áo ngắn ngang khuỷu, cổ áo tròn, may bằng loại vải gì vừa bóng vừa mềm mại, dịu mát, màu hồng tươi, cười thật niềm nở chào anh.
Quán vẫn chỉ khoảng vài người khách như mọi buổi sáng.
Hồi nãy, trước khi dắt xe ra khỏi nhà, lúc phân vân ở ngã rẽ, Niên suy nghĩ, chút suy nghĩ chả có gì phức tạp, nhưng bị cộng với cảm xúc âu lo, ngượng ngập, hóa ra quá căng thẳng. Bây giờ, biết Cúc Tần mới đi chợ về, đang ở dưới bếp, anh thở phào, khe khẽ kìm lại nửa chừng tiếng thở.
Niên ngồi một mình với ý định để đầu óc thật trống rỗng. Được vài phút, anh lắng tai nghe nhạc. Niên cố gắng xua hết khỏi trái tim anh bao nỗi phân vân, âu lo. Cũng chả cố gắng gì, cứ buông thả mình trôi đằm theo nhạc. Thư giãn, thư giãn đi nào... - Niên tự nhủ vậy.
Hòa Bình tính tiền cho khách, pha chế, bưng ra bàn cho những người mới đến các loại thức uống họ yêu cầu. Cô vừa pha trà đen cho Niên, vừa nhìn ngoái vào cửa sổ:
- Cảo Thơm! Bác Niên đến kìa cưng!
Cảo Thơm đang loay hoay với các đồ chơi lắp ghép xây dựng, đứng vụt dậy, chạy ra với Niên.
- Cảo Thơm uống gì, bác Niên mời.
Cảo Thơm đáp nhanh:
- Nước ngọt! Nước ngọt nghen bác - nó nhìn Niên.
Niên vuốt tóc nó, bước vào quầy. Mặc Hòa Bình phản đối vì sợ hư con, Niên vẫn yêu cầu cô cho nước đá vào li, anh tự khui một chai cô ca, rồi mang ra bàn.
- Cảo Thơm sáng nay đang làm gì đó? - Niên rót nước ngọt đầy li cho chú nhỏ.
- Cảo Thơm xây nhà cho cô Cúc Tần với chú Điệp, nhưng cổ không chịu. Thì cứ xây để vậy! - Cảo Thơm hồn nhiên.
Niên nghe đắng trong cuống họng.
Hòa Bình bước tới, ngồi một bên con trai:
- Sáng chủ nhật, anh Niên không đi đâu sao?
Niên nhìn gương mặt trắng hồng của người đàn bà có quê gốc của bên ngoại ở tít tận một bản mường nào đó ngoài Bắc. Một gương mặt dễ nhìn, với nhiều nét trẻ thơ khó mất: môi hồng, mắt đen hồn hậu, tóc mây huyền mượt. Niên cười:
- Chẳng biết đi đâu. May có Lá Xanh của cô giáo Hòa Bình, và Cúc Tần...
Aằnh nắng đâu đó trên tán lá khế xanh thẫm nhảy múa, lấp lóa trên mặt bàn.
- Có cuốn phim hay lắm, anh Niên xoay ghế lại xem nhé! - cô nhớm chân định đến quầy mở máy băng hình.
Niên chưa kịp cản Hoà Bình, Cảo Thơm nói ngay:
- Phim hai phe đánh nhau. Aằc liệt lắm, tội nghiệp lắm. Bác Niên coi đi. Bác đừng khóc à nghen!
Niên cười, lắc đầu, nói như gọi:
- Thôi, Hòa Bình để đó, hôm sau...
Hòa Bình cười, khi quay về bàn:
- Phim hay thật đấy. Anh Bảo mua hẳn cuốn băng. Lẽ ra nhóc này đừng coi... Phim chiến tranh nhưng rất nhân bản. Cảm động lắm.
Cảo Thơm nhanh nhẩu:
- Cuối cùng phe ông ngoại thắng phe ông nội mẹ hén? Sao ông ngoại thắng mà khóc hả mẹ?
Hòa Bình cười, nhìn Cảo Thơm:
- Con buồn cười thật! Mẹ đùa đấy mà. Ông ngoại có đi bộ đội bao giờ đâu. Ông ngoại suốt đời dạy học mà.
Cảo Thơm ngước mắt nhìn mẹ:
- Sao hôm coi phim với ba, mẹ nói?
- Thì đã bảo là đùa! - Hòa Bình nhìn Niên - Chuyện phim như thế thật. Một thiếu tá cách mạng, vốn dân miền Nam tập kết, tấn công một tiểu khu của lính Sài Gòn, bắn chết một thiếu tá ngụy, hóa ra là ông sui, bố vợ của con trai mình, thời điểm sắp thống nhất, năm bảy lăm. Ngày sum họp vừa mừng vừa khóc... Phim Việt Nam mình bây giờ sâu lắm, thật, và quá nhân bản.
Niên bất giác cũng cay cay sóng mũi. Anh vẫn hài:
- Đả đảo chiến tranh, bảo trọng hòa bình!
- Ba Bảo quý trọng mẹ hở bác? Đúng rồi! - Cảo Thơm nhảy tưng - Ba Bảo quý trọng mẹ!
Niên và Hòa Bình cười thật vui. Niên nói:
- Đừng có ai sẽ là ngụy nữa, trăm nghìn năm sau. Một đại gia đình dân tộc chia làm hai phe, đau lắm.
- Anh Bảo cũng nói vậy! - Hòa Bình gật đầu.
Cúc Tần bước ra, cười chào Niên, nựng má Cảo Thơm. Cô ngồi xuống ghế.
Trong đầu Niên thoáng nghĩ, nếu ông nội Cảo Thơm là lính ngụy, sao cô của Cúc Tần là công an cách mạng được! Chẳng lẽ hai ông bà, một cách mạng, một ngụy? Nhưng Niên tự xua ngay ý nghĩ ấy, quan tâm điều đó làm gì! Cô ruột, cô họ, nhiều quan hệ bà con chứ đâu phải một. Anh mỉm cười, cố nén niềm vui trào dâng trong ngực khi nhìn thấy Cúc Tần. Aằnh mắt của Cúc Tần khiến anh nghe ran trong tim. Niên rất sợ khả năng trực cảm của Hòa Bình, anh cố giữ vẻ tự nhiên, không còn thân mật với Cúc Tần như khi hai người ngồi riêng với nhau. Anh tin Cúc Tần thừa thông minh để khỏi giận anh, ngỡ anh đã nhạt, rồi sẽ hành anh như hôm nọ hay hơn thế nữa cho bõ ghét! Chắc chắn Hòa Bình chưa thể đọc thấy tình cảm giữa Cúc Tần và anh, chút tình cảm ngay cả anh lẫn Cúc Tần cũng chưa định rõ mức nào ở nhau - Niên hi vọng vậy.
3
Lúc hai người đã được riêng với nhau, Niên nhìn Cúc Tần, nhìn sâu vào mắt cô, muốn nói một điều gì đó. Chạm ánh mắt anh, Cúc Tần cúi xuống, có lẽ một phần do cô ngại Hòa Bình từ trong quầy nhìn ra sẽ bắt được những gì trong mắt cô. Niên đang ngồi quay lưng lại, nên yên tâm nói bằng mắt.
Bỗng một chiếc xe dừng lại, tắt máy ngay ở cổng quán. Niên thấy Điệp bước vào. Niên cố giữ vẻ niềm nở tự nhiên, đưa tay phải lên chào với một nụ cười. Cúc Tần quay mặt nhìn ra, hơi bối rối.
- A! Bác Điệp, bác Điệp tới kìa, cô Cúc Tần ơi! - Cảo Thơm hét toáng lên.
Điệp khoảng ba mươi lăm tuổi, ăn mặc khá tươm tất, hiện là bác sĩ của một bệnh viện trong thành phố này. Anh hơi sựng khi thấy Niên đang chuyện trò với Cúc Tần, nhưng đã lỡ rồi, đành gượng mỉm cười chào hai người. Điệp hỏi Cảo Thơm: ''Mẹ đâu rồi?'' và cùng chú nhỏ xuống bếp chào Hòa Bình. Quan hệ giữa Điệp và Cúc Tần đã dứt khoát từ năm kia, sau lần từ hôn của Cúc Tần. Bẵng đi hai năm anh không lui tới, nhưng rồi sau đó vẫn đến thăm Lá Xanh. Lúc này, anh lúng túng. Chẳng lẽ để Hòa Bình tiếp anh dưới bếp, lúc cô đang bận tay? Chẳng lẽ xen vào câu chuyện giữa Cúc Tần và Niên?
Ở bàn cà phê, Niên cũng đọc thấy vẻ lúng túng của Cúc Tần, anh nói, và đưa mắt dò hỏi:
- Em xuống mời Điệp lên đây uống nước với chúng mình - Niên nhìn đồng hồ - Cũng đã chín giờ rưỡi rồi, anh lát nữa phải về.
Cúc Tần phân vân, muốn khẳng định giữa cô và Điệp thật đã không còn gì, dứt khoát hẳn rồi, nhưng thấy khẳng định vậy để làm rõ quan hệ giữa cô với Niên... không phải là không được, cũng không thể. Cúc Tần xuống căn bếp, mời Điệp lên uống nước. Điệp không còn cách nào chối từ, đành dắt tay Cảo Thơm lên.
Niên mỉm cười bắt tay Điệp:
- Anh Điệp vẫn công tác ở bệnh viện? Có mở thêm phòng mạch riêng chứ anh?
- Chúng tôi giờ ai cũng vậy - Điệp gượng cười - Tranh thủ thêm, ngoài giờ ở bệnh viện... - Điệp tìm trong xách tay một hộp danh thiếp đã vơi nửa, đưa một tấm cho Niên. Niên cảm ơn, nhưng chẳng biết trao lại gì cho Điệp. Niên nói:
- Hôm nào anh Điệp có dịp đến nhà tôi chơi, tôi sẽ tặng anh một vài cuốn truyện, tôi mới xuất bản mấy năm gần đây - Niên đề nghị Điệp đưa cho anh một tấm danh thiếp của Điệp nữa, để anh ghi địa chỉ và số điện thoại của anh vào mặt trắng phía sau, rồi trao lại Điệp.
- Vâng, xin cảm ơn anh trước. Tôi không ngờ anh là nhà văn Phan Cát Niên. Tôi đã có đọc truyện của anh. Hồi nãy, cũng có nghe Hòa Bình giới thiệu... Làm nhà văn sướng thật đấy, tha hồ cưỡi mây lướt gió, tình cảm dạt dào như sóng biển, được khối người yêu mến - Điệp cố gắng giữ giọng nói đừng sa vào ngữ điệu châm chọc, và anh chừng như thoáng buồn vì thấy mình không phải không có chút khó chịu, chua cay.
- Người ta hay định kiến như thế. Tâm hồn người cũng có bệnh, anh à. Y lo phần xác, văn lo phần hồn. Có điều... Cũng như bác sĩ, như nông dân, nhà văn vừa chữa bệnh, vừa nuôi sống con người, nhưng trái tim nhà văn cũng bệnh, cũng đói khát... - Niên ngừng lại, chợt thấy mình vừa cao ngạo, vừa đạo đức giả, vừa chân thành.
Khi Cúc Tần bưng nước ra, Niên tỏ ý muốn ra về. Một cảm giác ân hận lẫn với chua chát thoảng qua trong tâm hồn Niên.
- Anh Niên và anh Điệp dùng nước. Cảo Thơm qua đây với cô - Cúc Tần chìa tay kéo Cảo Thơm về phía mình. Có lẽ cô muốn nhờ Cảo Thơm để che giấu chút bối rối. Lần đầu tiên rơi vào tình huống này, Cúc Tần đối phó trong ứng xử một cách máy móc. Nụ cười sáng trên gương mặt cô biến mất. Đã có gì đâu, có vấn đề gì đâu, sao cô ngường ngượng.
Niên đọc thấy ở Cúc Tần tâm trạng đó. Điệp cũng vậy. Cả ba người, mỗi người một cách, đều thấy chính mình mới chẳng có lí do nào để ngồi đây. Cúc Tần chẳng công khai trả nhẫn hứa hôn cho Điệp cách đây ba năm rồi đó sao. Chưa bao giờ Điệp chua cay về điều đó như lúc này. Gương mặt lấm tấm dăm vết mụn của Điệp cơ hồ tím lại vì niềm chua cay ấy. Cúc Tần hơi tái mặt vì lúc này cô hiểu cả Niên và cả cô đều bị tình yêu dẫn dụ vào cái bẫy ngoại tình vừa ngọt ngào vừa tủi thẹn. Không. Đã là ngoại tình đâu. Nhưng sao tự mù được trước cảm xúc không cưỡng được của lòng mình. Đôi mắt bên trong tâm hồn cô thấy hết, nhìn rõ hết một tình cảm rất thật của chính cô. Với Điệp, cô không còn gì, còn với Niên, đã gần như Niên là tất cả. Niên cũng cảm thấy quả là Điệp với Cúc Tần rất xứng đôi. Còn Niên, anh có quyền gì để yêu cô giáo xinh đẹp, dịu dàng, trong sáng đến lạ lùng này. Anh nghèo, danh vị nhà văn thật mơ hồ, anh lớn tuổi, và điều quan trọng nhất là anh đã có vợ con! Làm sao anh có thể mang đến hạnh phúc cho Cúc Tần, người anh yêu quý như chưa từng yêu quý ai đến thế. Anh có cảm tưởng Thiên Đường có tên gọi là Cúc Tần sẽ bị anh hủy hoại bằng chính lòng yêu dấu, ngưỡng vọng cao độ nhất của anh. Thiên Đường chỉ để nuôi lòng khát vọng, không bao giờ anh được quyền chạm đôi tay của anh vào đó! Có phải Niên chỉ được ''hồn bướm mơ tiên'' (2)!
Cả ba người đều khó xử theo cách thế của riêng từng người. Có lẽ, một anh, hoặc một Điệp, hoặc cả hai, đành phải rút lui - Niên nghĩ vậy.
Và Niên đứng dậy chìa tay. Điệp, rồi Cúc Tần, cả hai lần lượt bắt tay anh.
- Anh Niên không ngồi chơi đã? - Cúc Tần nói khẽ.
- Thôi, trưa rồi, anh phải về. Tôi phải về, anh Điệp ạ. Hy vọng được gặp anh vào dịp khác. Vui mừng được chuyện trò với anh hôm nay - Niên nói.
- Đã chuyện trò gì đâu! - Lúc này, Điệp bỗng có cảm tình với Niên.
Niên cũng bắt tay Cảo Thơm, cười với chú nhóc, rồi ra gần căn bếp chào vọng vào Hòa Bình. Thật ra Hòa Bình không thể không biết tình huống oái oăm này. Cô chẳng hiểu vì sao, và cũng chẳng biết làm sao để gỡ giúp.
Niên thấy trái tim mình cứng lại. Nỗi đau xót như cứa vào tim anh, buộc trái tim ấy phải hóa thép để tự bảo vệ.
Theo quán tính, Niên mộng du ngồi lên xe máy và về nhà. Ở tuổi bốn mươi hai, qua quá nhiều cay đắng, lẽ nào anh đành rũ rượi bỏ bữa cơm trưa! Nhưng quả thật, ba chén cơm trôi vào miệng anh thật nhạt nhẽo. Nhìn gương mặt vợ bình thản đến vô tư, Niên cảm thấy anh thật đáng trách. Anh tự phạt mình bằng cách gắng nhai thêm một chén cơm đắng ngắt, vị đắng của nỗi đau xót và niềm ân hận. Bông Trang hiền lành, cùng anh bao năm chia ngọt sẻ bùi, lẽ nào anh trao trái tim anh cho người khác? Anh không có quyền yêu dấu người nữ nào ngoài Bông Trang nữa!
Khi ngồi trông hàng cho vợ rửa dọn, nghỉ trưa, Niên nhìn ra đầu hẻm, mặt đường phố ngược xuôi xe cộ, anh lại nghĩ, anh chưa hề có một mảy may ý định phản trắc với người vợ thương mến. Có phải trái tim con người to rộng hơn, chẳng nhỏ hẹp như lâu nay vẫn tưởng? Có phải chẳng tình yêu nào giống tình yêu nào, dù khởi từ một trái tim? Và chẳng hiểu sao ở tuổi bốn mươi hai, anh lại có một tình yêu với Cúc Tần tinh khiết như thời mới lớn? Phải chăng chiếc đầu đang phân tích đồng thời đang biện minh cho trái tim? Anh không dám nhìn thẳng vào tâm thức anh sao? Con người với mỗi số phận phải chăng đã được định sẵn?
4
Đã mấy hôm rồi, từ buổi sáng khó xử giữa Điệp, Niên và cô, Cúc Tần bị xáo động tâm tư. Có khi, nửa khuya cô thức giấc, trăn trở, rồi ngủ thiếp đi với giấc ngủ mệt mỏi trong không khí oi bức bởi hiện tượng En-nô (Elno) (3), thứ không khí nóng hực, quay và quẩn trong phòng do quạt máy. Có buổi chiều đến trường, giảng văn cho học sinh, cô bỗng bị phân trí, phải đứng nghẹn một chốc. Cúc Tần thấy thương gần như thương hại Điệp. Đã dứt khoát rồi, sao Điệp còn đeo đuổi làm chi? Nhưng Cúc Tần đâu phải lấy niềm đau của Điệp làm nỗi kiêu hãnh của cô! Cúc Tần cũng nào phải vô tâm. Cô hiểu Điệp bằng chính tình cảm hiện đang dằn vặt trái tim mình. Biết có những tình yêu vô vọng, chỉ làm tổn thương chính mình, và người mình yêu nữa, có thể như thế, song người ta vẫn cứ không cách nào buông bỏ. Tình yêu đương chỉ là một thứ bản năng đã được con người sáng tạo thêm cùng với nền văn minh, nhưng chẳng bao giờ được các máy móc tin học tối tân nhất phân tích, dự trù, bởi không thể. Cúc Tần cũng hiểu chính cô đang rắc rối, đa đoan. Đã ba mươi hai tuổi rồi! Làn da trắng mịn đã bắt đầu có nếp nhăn mờ ở đuôi mắt, ở khóe cười. Cúc Tần cảm nhận sự vô tình của thời gian cùng với nỗi lẻ loi của cô.
Ngồi thẫn thờ một mình nơi cô và Niên thường ngồi, mắt nhìn lơ đãng, xa xăm, Cúc Tần nghe mấy người khách trẻ đang hào hứng và thiết tha bàn về một cuốn phim đang được giải lớn, trở thành thời thượng trên báo chí, trong câu chuyện phiếm của nhiều lớp người.
- Cũng như thời trang áo quần, hết ống loe đến ống thẳng, rồi trở lại ống túm, hết cộc lại phủ gót! - một người nói giọng Quảng Nam bàn luận.
- Đúng, En-nõ hay No-ẽn gì đó làm trái đất nóng hầm hập, đến cuối tháng tư Sài Gòn vẫn chưa mưa. Chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ mười chín phải quay trở lại làm mưa thay trời cho nhân gian bớt rộp da - một người khác, rõ là giọng Bình Định.
- Thế kỉ mười sáu với Rô-mê-ô - Giyu-li-ét (4)! Thực ra lãng mạn là thuộc tính của con người, đã có trong ca dao nghìn xưa. Khi có tuyên ngôn, cương lĩnh, nó trở thành chủ nghĩa. Ti-ta-nic (5) có đoạn vẽ tranh khỏa thân và đoạn ra rít thít thà trên xe hơi thích quá, nhưng tao sợ em gái tao nó hỏng thì hết thuốc chữa - một giọng đâu dưới Tiền Giang - Phạm Thái với Trương Quỳnh Như cũng lãng mạn khiếp (6)!
- Hỏng hay hổng hay không? - một giọng Nghệ An với tiếng cười.
- Hư hỏng đôi khi đồng nghĩa với ''sống hết mình''! - một giọng Hà Nội - Nhưng im bớt, nhỏ bớt, hình như cô chủ quán đang nghe, mắc cỡ lắm.
- Chị chủ quán xinh chứ nhỉ? Đang suy tư gì thế? - một giọng Thanh Hóa - Có thể ấy là một nửa của Sơ kính tân trang (6)!
Cúc Tần nhìn xa, lơ đãng, và vờ nghiêm nét mặt, muốn chứng tỏ cô chẳng nghe gì cả. Cô nghĩ, nhóm khách này có lẽ là sinh viên. Tinh quái lắm, những kẻ chỉ chịu đứng sau quỷ và ma!
Khi nhóm sinh viên ra về, Cúc Tần mỉm cười tiễn chân.
Bưng khay li tách ấm chén xuống chỗ gần căn bếp, nơi có một vuông sân lát gạch men, được xây gờ, để rửa với vòi nước máy bên trên, Cúc Tần nghe lòng mình nguội lạnh. Nước tuôn xuống thau nhôm. Cô muốn mình tỉnh lại. Cô chợt thấy cảm giác nghèn nghẹn của kẻ đạo đức giả đã biết giật mình. Cúc Tần tự hỏi, cô có xứng đáng là nhà giáo không nhỉ, giữa thời buổi mọi giá trị tinh thần đang được báo chí đánh động đã xuống cấp, ý thức tự phê phán của mỗi người hầu như kém đi. Tại sao báo chí mâu thuẫn thế? Có phải nghịch lí luôn diễn ra giữa ý thức và tình cảm? Không. Cô có quyền yêu đương chứ! Nhưng tại sao cô yêu Niên, một nhà văn đã có vợ có con? Anh ấy lớn hơn cô mười tuổi, nhưng dẫu có lớn hơn cô ba mươi tuổi, cô vẫn có quyền yêu đương, nếu anh ấy cũng độc thân như cô. Cô ý thức rõ tình yêu của cô sẽ làm Bông Trang và bé gái Ca Dao đau buồn. Cô phải chịu trách nhiệm về nỗi đau buồn của họ. Đúng là vậy. Phải lẽ là vậy. Nỗi đau của Điệp? Cúc Tần cắn môi khi rửa li tách, đồ lọc cà phê, muỗng và bình trà. Không. Cô có quyền trả nhẫn hứa hôn. Hơi xót xa cho Điệp, nhưng cô có quyền suy nghĩ lại, đưa ra sự chọn lựa cuối cùng, trước lễ cưới. Điệp hãy tha thứ cho cô và mong Điệp quên cô đi, hơn nữa, có tàn nhẫn lắm không khi bảo Điệp hãy buông tha cô. Điệp đừng dìm cô vào nỗi ân hận nữa. Điệp hiểu giùm cho, có những điều phải cố quên đi cho nhẹ lòng. Cúc Tần lạnh lùng nghĩ, phải quên Niên, như Điệp phải quên cô. Nhưng tại sao lại lấy các chuẩn mực đạo đức, trong đó có ý thức trách nhiệm và ý thức không chịu trách nhiệm để thắt siết trái tim? Nhà giáo, nhà giáo là cái gì vậy mà khổ tâm đến thế? Hãy sống bừa đi, thây kệ cuộc đời! Trung thực trong lời giảng văn, với chân, với thiện, với mĩ làm gì cho héo úa, tàn phai, cằn cỗi? ''Tấm gương sáng cho học sinh noi theo'' ư? Có thể nào người ta phải cắn răng từ bỏ một nửa của tâm hồn mình, thân xác mình đã mỏi mòn tìm, và tìm thấy! Không một Cúc Tần trên bục giảng thì đất nước này vẫn thế. Có hề chi một con-người-bé-nhỏ muốn chạm tay vào hạnh phúc của tình yêu đương. Có người còn dám từ bỏ cả ngai vàng hoàng đế vì tình yêu đương cơ mà!
Quán lại vắng khách sáng nay. Cúc Tần lại chỗ cô và Niên thường ngồi. Cô chợt thấy rơi xuống vực sâu vô vọng khi nỗ lực leo lên đỉnh cao của hạnh phúc. Cô có quyền gì, không, cô không thể có thứ quyền độc ác là cướp đoạt hạnh phúc hay ít ra là sự ổn định gia đình của Bông Trang và bé Ca Dao! Cúc Tần lạnh lùng tự dùng những từ ngữ nặng như chì để bắn vỡ niềm ước vọng của chính cô!
Không! Tôi nào dám độc ác với ai! Tôi độc ác với chính tôi rồi đó! - Cúc Tần muốn bật khóc phân trần.
5
Nhân hai ngày lễ lớn, cuối tháng tư, đầu tháng năm, Niên có những cuộc rượu vui với bạn bè. Anh cũng muốn quên, cố gắng quên Cúc Tần và quán Lá Xanh. Đôi ngày, Niên đã hoàn toàn tỉnh hẳn: Chuốc thêm một niềm đau để làm gì.
Trong những lúc khuya vắng, nằm bên cạnh Bông Trang, Niên nhắm mắt vờ ngủ nhưng vẫn thao thức. Niên lạnh lùng lục vấn chính mình. Anh đã gọi đích danh tình cảm của anh dành cho Cúc Tần: ngoại tình! Hai chữ ấy vang lên nghe rờn rợn. Tại sao Niên yêu Cúc Tần? Anh biết bất kì hành vi, tâm trạng, tình cảm nào cũng có lí do của nó. Thậm chí, Niên nghĩ, người ta có thể nêu ra muôn vàn nguyên nhân hay động cơ, có thể có những lí do bỉ ổi, đê mạt, tục tĩu. Cũng có thể người ta tìm ra một ngàn lẻ một đến hằng hà sa số lí lẽ để biện minh. Là nhà văn, anh có quyền, mặc nhiên được thừa nhận, trong việc trải nghiệm không chỉ một mà năm, bảy cuộc ngoại tình để thấu hiểu chính mình và trái tim người khác!? Là một con người gặp một cuộc hôn nhân do hoàn cảnh xô đẩy, không vừa ý, không phải với người anh yêu bằng tất cả con người mình, nên anh mãi hoài muốn thoát khỏi cuộc hôn nhân ấy? Anh muốn thử nghiệm sức hút của chính anh? Hay bản năng độc ác nào đó đã vô thức điều khiển anh để anh vấy bẩn vào cô giáo xinh đẹp, dịu ngọt với giọng nói Sài Gòn dễ thương có tên là Cúc Tần?
Niên quằn quại với những câu hỏi độc ác nhất, thâm hiểm nhất có thể có trên đời này, được lấy ra từ những tâm hồn đầy nọc rắn, được rèn từ các bễ lửa của lòng ghen tị hừng hực, trở thành những cái móc cắm sâu vào trái tim của anh.
Niên đang đối chất với chính anh. Và anh tự thanh thản trở lại để trả lời với mình: Không. Anh muốn khẳng định: Cúc Tần là Thiên Đường đã tìm thấy của anh. Anh muốn hét lớn: Anh yêu cô ấy vì cô ấy là cô ấy, mặc cho cô ấy có những quan hệ gia đình, họ tộc, quê quán nào, dẫu gốc gác xa tít tận Cần Thơ xa xôi. Nhưng tại sao anh lại tự đặt những câu hỏi cắc cớ và độc ác ấy làm gì cho đen tối niềm yêu thơ mộng của tình cảm anh!
Vấn đề đơn giản là anh phạm tội với ý thức rất rõ về tội ngoại tình! Trong cuộc ngoại tình ngọt ngào này, chỉ có bốn người phải đứng trước bước ngoặt của đời họ: Bông Trang, Ca Dao, Cúc Tần, và kẻ cuối cùng trong bốn người ấy, là anh. Ai là kẻ đau đớn nhất? Ai là kẻ không đáng chịu mảy may đau đớn nào trong cuộc này? Ai là kẻ bị trừng phạt?
Trong giấc mộng mị, chìm sâu rồi lại lờ mờ ý thức, nửa khuya về sáng, Niên thấy tổ ấm được gầy dựng bằng sách báo các loại như rác rến phế thải của anh bốc cháy. Bao cuốn sách diễm tình tay ba, tay tư ba xu bốc cháy. Bốc cháy hết những tiểu thuyết, bài thơ ngoại tình ''tam giác'', ''tứ giác'' được xếp vào văn chương kinh điển. Tại sao mảng đề tài ngoại tình trong các kiệt tác thế giới xưa nay lại nhiều đến thế? Những sách báo ấy đang cháy cả gia đình bé nhỏ của anh bằng ngọn lửa của ngoại tình.
Ràn rụa mồ hôi, anh trở mình ôm chặt Bông Trang.
Bông Trang tỉnh ngủ, ngồi dậy, xoay chiếc quạt hướng vào người anh cho ráo mồ hôi. Không, lửa ấy ở trong trái tim anh, không ở đâu hết. Không tắt được đâu. Không ngọn gió nào có thể thổi tắt dù hóa thành mưa bão. Nhưng cũng chỉ một số nào trong kho sách rác rến ấy, dẫu là văn chương kinh điển. Không, không... Cũng không phải vậy...
Niên nghe Bông Trang làu bàu: ''Trời năm nay sao nóng quá! Rán ngủ đi anh!''. Âm sắc giọng làng quê nào ở Sa Đéc. Lúc này, Bông Trang trở lại nguyên cô gái phù sa miền châu thổ, với giọng nói chân quê đậm tình, làm anh lơ mơ mỉm cười mệt mỏi. Niên ôm chặt Bông Trang, ngỡ đấy là bình chữa cháy đời nhau. Anh mong Bông Trang ghì chặt lấy anh và cũng nghĩ một cách thiết thực đến thô thiển như vậy. Nhưng Bông Trang có biết gì đâu!
6
Sáu giờ sáng Niên mới thức dậy. Bông Trang cũng muốn để Niên dậy muộn thêm. Cô biết hồi hôm có chút rượu với bạn bè nên anh mệt. Chắc anh hơi quá chén.
Trong khi Bông Trang chuẩn bị bữa sáng cho con gái, là lại áo quần đã có nếp gấp, Niên lúi húi pha cà phê, rồi làm vệ sinh và tập thể dục.
Niên vào đánh thức Ca Dao, ẵm cô bé ra trao cho mẹ. Ca Dao ngái ngủ, nhõng nhẽo.
Niên bực mình vì thế là chẳng viết thêm được trang nào. Cuốn tiểu thuyết còn dở dang lại muộn thêm một ngày. Nhưng nhìn vợ và con gái cưng, anh không muốn làm phiền cho dù là một lời càu nhàu.
- Ăn sáng đi cưng - Niên nói với con.
- Hôm nay ba má ăn sáng với con luôn - Ca Dao nói.
- Ngoan quá! - Bông Trang vuốt tóc Ca Dao.
Niên nhai khúc bánh mì Bông Trang hé cửa mua hồi nãy. Dẫu đăng đắng do còn men rượu, anh cũng gật gù. Niên thấy hạnh phúc giản dị có thế, với ý thức chấp nhận những gì trong tầm tay, trong việc thực hiện ước vọng cao xa không gây phiền cho ai, không lạy lục cầu xin ai. Hạnh phúc gia đình với anh dẫu sao cũng là chuyện vặt... Ờ, chuyện vặt...
Niên thấy lòng mình bình thản trở lại. Anh thầm cảm ơn sự đảm đang, tảo tần của Bông Trang, sự ngoan ngoãn, chăm học của con gái.
Thế là êm ấm rồi, anh còn mơ mộng, ước ao gì nữa! Vấn đề là cái đỉnh văn chương kia, cái anh còn phải leo dốc đến cuối đời, lúc thở hơi thở cuối, chắc vẫn còn vừa mở đường vừa leo. Cái đáng sợ hãi là hăm hở, hồng hộc, cắm cúi mở đường leo dốc lại gặp lối mòn ai để lại.
Anh vừa ăn bánh, uống cà phê, vừa đọc thầm trong óc câu kinh mới: Thế là êm ấm rồi, quên Thiên Đường đi!
Thế là êm ấm rồi, quên Thiên Đường đi!- Niên đọc hơn một trăm lần, chỉ trái tim anh nghe tiếng nói của bộ óc. Trên đường chở con đến trường tiểu học, Niên cũng thành khẩn đọc thầm câu kinh buồn cười ấy.
Đến cổng trường, Ca Dao xuống xe, Niên buột miệng nhưng kịp kìm lại. Câu nói nghẹn trong ngực anh:
- Cảm ơn Ca Dao. Cảm ơn Quyền Trẻ Thơ.
Cô bé cười thật tươi, thấy ba Niên sáng nay ngồ ngộ. Niên cũng há miệng cười.
7
Chiếc xe gắn máy tắt từ ngoài cổng.
Cúc Tần nhìn ra, cười khi nhận ra hai học sinh cũ.
- Vào đây đi! - Cúc Tần vui trong giọng nói.
Hai người trẻ tuổi, một nam, một nữ, thay nhau chào cô giáo, khi đang bước vào sân.
- Biển và Thạch Na dạo này chững chạc quá. Hai em ngồi đây đi, cô lấy nước uống. Na với Biển uống gì nào?
- Dạ - Biển, người con trai thưa - Bọn em lâu rồi mới đến thăm lại cô, thấy cô vẫn khỏe...
- Dạo này cô vẫn vui, và chắc có gì vui hơn hở cô? - Na, cô sinh viên có nước da nâu rất duyên, nói trong tiếng cười.
Cúc Tần cười với hai học sinh cũ vốn là hai học sinh giỏi nhất lớp mười hai, năm kia cô phụ trách giảng dạy và chủ nhiệm.
Lúc ba người uống nước, Cúc Tần để ý ngắm Thạch Na như một người chị âu yếm nhận xét em gái:
- Thạch Na trông duyên hơn hồi học phổ thông. Nhưng sao Na lại cắt ngắn tóc uổng vậy! Tóc mây đen nhánh, quá duyên, rụng một sợi tiếc một sợi, thế mà chẳng để xõa ngang lưng cho đẹp.
Na cười thẹn, cúi đầu.
- Na sợ các hãng dầu gội đầu mướn làm quảng cáo đó cô! - Biển lém lỉnh nói.
- Hai em có học thêm gì không? Hay chỉ môn văn?
Na thưa:
- Hai chúng em quyết tâm theo gót cô, nhưng học thêm ngoại ngữ.
- Giỏi quá! - Cúc Tần mừng.
Nói chuyện một lúc, Biển sực nhớ, bối rối vì một điều gì, hất cằm ra hiệu cho Thạch Na. Thạch Na hơi đỏ mặt.
- Có gì, nói đi! Cô trò mình vẫn thân thiết như ngày nào mà! Cúc Tần thấy hai em ngần ngại nên mở lời.
Chờ nhau, cuối cùng Biển phải thưa:
- Thưa cô, bọn em... - Biển rút từ túi xách ra một phong bì lớn, nhìn qua, biết ngay là thiệp cưới.
Cúc Tần ngạc nhiên:
- Đám cưới ai đây? Bộ... - Cúc Tần mở phong bì Ủ Trời đất! Vui vậy! Hai em tính toán bao giờ mà hay thế? Xin chúc mừng! Hay thật!
Hai người trẻ tuổi cười thật tươi nhìn nhau.
- Thưa, bọn em còn một số nơi phải đưa thiệp. Em kính gửi cô chuyển giúp thiệp này đến cô Hòa Bình, thầy Niên - Biển đưa hai phong bì bằng cả hai tay.
- Chúc mừng hạnh phúc trước nhé. Hôm đám cưới dù nắng đổ lửa cô cũng có mặt. Như vậy là tiểu đăng khoa trước đại đăng khoa ở trường đại học. Cũng hay! Hay đó nghen!... Ờ - Cúc Tần gật đầu - Cô sẽ chuyển thiệp tận tay...
Lúc cùng ra cổng, Na cố tình đi chậm lại với cô giáo, nắm lấy bàn tay thon thả của cô.
- Bọn em mới học năm thứ hai. Hơi vội cô há?
- Không - Cúc Tần nói, siết chặt tay Thạch Na - Mười tám tuổi cũng được, nữa là hai mươi. Có điều, các em đã rất chín chắn để quyết định. Năm, bảy năm sau hẵng có nhóc tì, lo gì! Này, vẫn theo lễ cưới Khơ-me chứ Na?
- Dạ, nhưng làm lễ trước ở tận Châu Đốc lận, sau đó mới ra mắt trên này.
Cúc Tần siết tay Na lần nữa: Tốt quá! Hạnh phúc nhé Na, Biển! - và cô bỗng bâng khuâng.
Cô giáo ngẩn ngơ đứng nhìn theo hai học trò cũ. Cúc Tần cũng không ngờ. Khi không, cô đưa tay sờ lên nếp nhăn mờ trên đuôi mắt. Cúc Tần mỉm cười, kìm lại tiếng thở dài. Cô chẳng hiểu vì sao. Thật lòng Cúc Tần chẳng hiểu vì sao, và bất giác sợ hãi hai chữ: ''muộn màng'', nỗi âu lo muôn đời của bao cô gái. Cúc Tần lóe lên ý tưởng buồn phiền: sách vở, những văn chương, triết học, cuối cùng cũng tầm thường đến thế sao? Có phải cô tự khinh mình tầm thường để bày tỏ với mình một niềm cao ngạo, cũng chỉ nhằm vuốt ve chính mình? Điệp đó, Cúc Tần còn chọn lựa gì nữa? Còn Niên, chỉ là tuyệt đối của tương đối, trong mắt cô, với mắt cô. Điệp không phải là một nhà sáng tạo, không có khát vọng sáng tạo trong khoa học, dẫu bao lần cô đã khích lệ anh ấy. Nhưng người sáng tạo chỉ có mỗi một hạnh phúc: sáng tạo. Thường là thế. Còn hạnh phúc gia đình bé nhỏ của những đôi lứa? Ở tuổi này, cô còn bị huyễn hoặc bởi điều gì nữa! Hình ảnh bao người nữ như thiên thần bên đời các nhà sáng tạo, nhất là các nhà văn, đã nuôi sống trái tim cô suốt thời tuổi nhỏ, cả thời mới lớn, đến tuổi ba mươi hai này, theo tháng năm, đâu còn thật đến lung linh, cái lung linh làm say ngọt lòng cô! Cúc Tần thấy cô chưa nỡ nào bóp chết chút mơ mộng, dẫu cô thừa biết mình đã mất lâu rồi chút ngây ngô huyền ảo trẻ con. Cúc Tần rùng mình hình dung hình tượng cô gái tóc trắng, bạc phơ, trinh trắng, còm lưng bởi ước vọng như khối đá nặng oằn, một mình lẻ loi trong chiều hôm. Có lẽ không còn là ước vọng, khối đá ấy là cô quạnh! trong hoàng hôn đời người!
Cúc Tần bước vào nhà, trên tay cầm ba tấm thiệp, đến bên chỗ cô và Niên thường ngồi. Nắng trưa dăm đốm nhảy múa như chút mộng ảo chợt có chợt không trên bàn. Không. Cúc Tần tự biết cô xinh đẹp, trí thức, trinh trắng, khỏe mạnh. Tuổi ba mươi hai chưa già đâu nhỉ - Cúc Tần tự nhủ. Cô nhìn sững sờ dăm đốm nắng không ngừng chơi trò biến ảo. Trêu nhau đấy chăng?
8
Phân vân mất hai hôm, Cúc Tần cũng phải trao thiệp cưới của Biển và Thạch Na cho Niên bằng cách của cô.
Trước ngày cưới của hai người trẻ tuổi đang còn là sinh viên này, Niên đang ngồi trông hàng sách báo cũ để vợ đi chợ, chợt nghe điện thoại reo. Niên buông bản thảo cuốn tiểu thuyết nhỏ anh viết lại những gì đã viết cách đây hai mươi ba năm hơn, anh cầm ống nói. Nghe đằng kia dây một giọng quá thân quen, anh suýt reo lên, nhưng ngữ điệu và ngôn từ lạnh lùng cũng của giọng nói ấy làm tiếng reo khựng lại trong cuống họng anh.
- Xin vui lòng cho tôi gặp ông Phan Cát Niên.
Niên hy vọng đấy là trò đùa tinh nghịch, anh cũng đóng kịch:
- Thưa, tôi là Niên đây. Vui lòng cho tôi biết, là ai đằng kia dây nói ạ?
Vẫn lạnh lùng:
- Chúng tôi định gửi thiệp mời dự đám cưới qua đường bưu điện đến ông. Tuy nhiên...
Niên nghe nhói ở tim.
- Sao vậy? - Niên ấp úng, anh buột miệng, rồi cố giữ bình tĩnh - Thưa, vậy là sao ạ?
Vẫn lạnh lùng:
- Xin ông vui lòng đến nhà chúng tôi. Biết vậy là bất nhã. Có điều chẳng lẽ ông không vui lòng sao?
Niên muốn hét lên qua máy: Vui lòng? Vui lòng nỗi gì! Sao khéo chơi chữ như đóng đinh vào ngực nhau thế! Anh nghẹn ngào, im lặng. Một lúc, anh nói:
- Thưa cô, dẫu thế nào... tôi cũng phải vui lòng. Vâng, đành thế...
Giọng đằng kia dây ngắt lời, không muốn để Niên nói:
- Một lần nữa, xin ông vui lòng. Tôi là Cúc ở quán cà phê Thanh Diệp. Kính chờ ông. Xin cảm ơn ông trước. Xin lỗi ông về sự bất nhã này bởi chúng ta là chỗ quen biết lâu năm trong phường. Xin ngừng máy.
Niên cầm ống nói, vẫn áp vào tai, sững sờ. Trò kịch, rõ rồi, với ngôn từ, ngữ điệu khách khí rất đỗi trưởng giả, khó thân thiện. Nhưng ẩn nghĩa, có lẽ không thể là kịch, mà sự thật.
Niên gác máy, bước tới chỗ ngồi, lóng cóng cầm xấp bản thảo cũ định chữa lại đôi chút để đưa Cúc Tần đọc, như đã hứa, nhưng anh đã dặn lòng thôi, và bây giờ rõ là phải thôi thật rồi. Đúng rồi, dẫu có trục trặc, nhưng Điệp và Cúc Tần chỉ còn cần một lễ cưới. Họ thành hôn với nhau đâu phải là đột ngột. Có điều, sao Cúc Tần trở lòng nhanh thế! Cúc Tần đóng kịch tài tình thế ư?
Niên cay đắng đến mức muốn đập vỡ một cái gì đó.
Cúc Tần không ngờ màn kịch cô chủ động để không xuống nước trước Niên, cũng tránh sự nghe lén của ai đó, và để đối phó với Bông Trang, vì Bông Trang có thể có máy phụ, hoặc đoán qua nửa kia cuộc điện, màn kịch ấy lại gây hiểu lầm tai hại đến vậy. Lúc Cúc Tần phấn khởi, thích thú ở Lá Xanh là khi Niên cười nhạt một mình, trong nỗi buồn rầu như chấp chóa bao phủ quanh anh, với niềm đau nơi ngực anh.
Niên thấy không nên đến Lá Xanh nữa. Nhưng anh không là người chịu chết vì một sự xem ra còn là phỏng đoán. Niên mơ mộng đến chơi vơi, nhưng không bao giờ tin chắc một điều gì, nếu không đi tới tận cùng của việc kiểm chứng. Cúc Tần chơi một trò đùa khá đau đầu! Niên lại nghĩ, dẫu sao cũng không nên để cô giáo này xúc phạm nữa. Nhưng chẳng lẽ không dự tiệc cưới của Cúc Tần? Anh đâu thiếu bản lĩnh hay lịch sự. Gạt hết mọi rắc rối, thật lòng anh muốn gặp Cúc Tần lắm vì Niên biết anh chưa yêu ai đến thế. Trong những ngày dằn vặt gần đây, gương mặt trắng hồng với nụ cười tươi, trắng ngời hàm răng đều đặn, nhất là đôi mắt to đen long lanh ánh cười như nét duyên thầm, vẫn không ngớt hiện ra trong đầu anh, lúc ngủ, cả khi thức.
Có điều, liệu người ta có thể trở lòng nhanh đến thế sao, hoặc đóng kịch nghề đến vậy sao?
Chưa bao giờ Niên buồn cho Tình Yêu đến vậy!
Cuối cùng, Niên quyết định gọi điện cho Cúc Tần. Cúc Tần giữ kẽ, còn xưa nay anh có sợ gì cơ chứ!
Sáng hôm sau, anh nhấc ống nói và bấm số.
- Cúc Tần, em đùa chi ác thế! Thiệp cưới của ai vậy?
Đằng kia dây:
- Thưa ông, tôi là Cúc ở hiệu cà phê Thanh Diệp. Ông quên rồi sao?
- Không có Bông Trang và Ca Dao ở nhà. Chỉ một mình anh. Nói thật đi, đừng kịch nữa, đau đầu lắm. Hôm trước anh trượt theo đà màn kịch, đau quá trời cái đầu của anh - Niên hạ giọng, thầm tự động viên, hạ mình trước người nữ một chút có sao đâu.
- Thưa ông, ông nhầm số rồi. Hay ông điên rồi chăng?
- Không, thiệp cưới của ai vậy? Nói thật đi em.
- Thưa ông, chúng tôi tổ chức cho hai nhân viên cũ của chúng tôi. Tôi là Cúc, vẫn độc thân. Kính chờ ông đến.
Và máy bị ngắt bởi đầu dây bên kia. Niên cười. Anh muốn cười ha hả. Yêu một người giữ kẽ thật là mệt óc. Niên nghĩ thế, nhưng anh đâu hiểu giúp Cúc Tần, yêu Niên, Cúc Tần còn mệt óc gấp ngàn lần. Cô ngại với cả Hòa Bình, Cảo Thơm, với bất kì ai quen biết. Yêu anh, cô đã liều lĩnh thế nào, sao anh không thèm biết tới!
Quên hết mọi rắc rối, phần lớn do lương tâm tưởng tượng ra, Niên lại hí hửng đến với Lá Xanh. Anh có ý định làm cách nào để nói cho Cúc Tần hiểu, cả hai có lẽ đã qua tuổi chơi trò ú tim lâu rồi. Không, phải nói rõ điều đó với cô ấy...
9
Sau buổi tiệc cưới vào chiều chủ nhật của Thạch Na, cô sinh viên có vẻ đẹp mặn mà, khỏe khoắn lại rất sâu lắng như một diễn viên nổi tiếng của Đn Độ, với Biển, người cùng lớp với cô bé, chính gốc dân Sài Gòn, Niên chạy xe song song với xe của Hòa Bình và Cúc Tần. Niên thấy hai cô giáo, dưới ánh sáng trắng của đèn cao áp dọc đường đi, với hai chiếc áo dài làm nổi rõ hai thân hình thon tròn, chín mọng, thật kín đáo, mềm mại, gợi nên một cảm xúc thanh khiết trong anh. Cúc Tần ngồi một bên phía sau Hòa Bình. Cô mỉm cười với Niên, rồi quay mặt giấu một ý nghĩ về anh: Niên dự đám cưới vẫn mặc đàng hoàng một cách giản dị đến khác người, nhưng chắc chắn không lập dị, chỉ có thể đó là một người tự tin, quan tâm đến cái gì khác hơn là vẻ hào nhoáng. Niên chạy xe một tay, tay kia ôm Cảo Thơm vào lòng, mỉm cười với cô.
Hai chiếc xe chạy chầm chậm trên đường Đinh Bộ Lĩnh, sắp đến đường Bạch Đằng, bỗng Hòa Bình xem đồng hồ tay, chạy vọt lên trước một quãng. Hòa Bình nói với Cúc Tần trước khi dừng lại ở ngã tư chờ đèn xanh:
- Chị Cúc Tần! Đi chơi với anh Niên đi, cho có kỉ niệm. Dẫu sao, kỉ niệm sau này cũng quý lắm.
Cúc Tần véo nhẹ vào vai Hòa Bình:
- Kì lắm!
- Hãy có những kỉ niệm đẹp trong đời! Vậy nhé?
Đợi Niên dừng xe bên cạnh, Hòa Bình nói:
- Anh Niên! Mới sáu giờ. Em phải ghé qua nhà ông ngoại Cảo Thơm, nhờ anh chở giúp chậu hoa tím ngát trữ tình này nhé. Cảo Thơm qua mẹ đi cưng... Gió sông Sài Gòn mát lắm!
Niên không ngờ Hòa Bình có thể giúp anh một niềm vui quá mong ước của anh như vậy. Anh cố gắng không để niềm vui rộn rã lộ vẻ bối rối để Cúc Tần bối rối hơn. Và nhanh nhẹn áp xe vào lề, dựng xe, rồi bồng ngay Cảo Thơm qua xe Hòa Bình, không để Cúc Tần đổi ý.
Cúc Tần cũng bất ngờ nhưng chịu để cho hai người thừa kinh nghiệm sắp xếp!
Và Niên lập tức rẽ phải, định bụng xuống Xô Viết Nghệ Tĩnh, trái đường với Hòa Bình, trước khi hỏi ý Cúc Tần.
Đi một quãng, Niên nói trong niềm phấn khích ghìm lại:
- Xuống quán Tre Xanh hay Sông Trăng ở Thanh Đa hóng gió sông nghe Cúc Tần! - và anh nói thêm cho Cúc Tần yên tâm - Ở hai nơi đó rất sạch sẽ, sáng sủa, rất thơ.
Cúc Tần đành giữ vẻ tự nhiên:
- Vâng! Mùa này sao Sài Gòn nóng quá - cô bâng quơ.
Gởi xe xong, Niên và Cúc Tần sóng vai nhau tìm một
bàn nước để có thể nhìn ra mặt sông khi nắng chiều sắp tắt.
- Đêm nay trăng rằm, đẹp lắm! - Niên nói.
- Vâng. Thật bất ngờ!
Niên hỏi ý Cúc Tần khi đặt tấm danh mục thức uống từ tay người tiếp tân của quán xuống trước mặt cô.
Khi tiếp viên bưng thức uống ra, mặt sông còn loang loáng nắng. Gió sông rười rượi, lồng lộng thổi khiến cả hai người yêu nhau và chưa hề chính thức nói lời yêu nhau này có cảm giác mát mẻ đến ngây ngất.
- Trăng trên sông mới thật là trăng, Cúc Tần à.
- Vâng. Thật bất ngờ...
Niên sực nhớ một bài thơ của Phan: ”Sớm của muộn”:
đóa trăng tuổi bốn lăm
mới thật rằm thắm vội?
bóng lả sương lá rối
khỏa ngạt trời hoa râm!
Anh muốn chia sẻ với Cúc Tần vầng trăng thứ hai trong đời người, vầng trăng của dang dở... Niên liên tưởng đến Điệp một thời của Cúc Tần. Anh ái ngại cho Điệp... Anh cũng không thể không tự thấy, từ thơ, anh liên hệ khá khiên cưỡng! Sao trong khung cảnh rất thơ này, anh tầm thường thế! Anh không thể cao thượng một cách vớ vẩn lúc này. Phải biết quên. Quên. Quên Điệp đi. Và phải biết chấp nhận một người đàn ông suýt nữa đã bước vào đời người anh yêu, yêu đến đau đớn. Quả là Cúc Tần xinh đẹp, dịu dàng đến đau lòng, bởi anh ý thức rõ giới hạn của mình... Niên biết Niên lẩm cẩm trong suy tưởng. Hãy sống nhẹ nhõm hơn. Vầng trăng thứ hai hiểu như biểu trưng sắp lên! Và làm sao Niên hiểu hết Cúc Tần. Anh giả định một khả năng đáng tiếc, và chấp nhận giả định ấy về sự trinh trắng. Niên nghe nghèn nghẹn, dẫu không muốn làm hỏng đêm trăng bên sông này! Chấp nhận sự thật có thể buồn, hay gây men ảo giác nhỉ? ''Sớm của muộn'', họ vẫn còn quá trẻ để yêu nhau!
- ''Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ'' hay sao vậy anh Niên? - Cúc Tần khẽ khàng. Cô ngỡ Niên đang rất thơ, có thể thoát tục.
Niên cười, thoáng xấu hổ vì ý tưởng rất thật vừa rồi:
- Buồn thức! Muốn thức. Lần đầu tiên mình có một kỉ niệm bên ngoài Lá Xanh, phải vui thức chớ!
Cúc Tần chợt nhớ câu nói của Hòa Bình khi ở ngã tư hồi nãy.
- Có nhiều người chắt chiu kỉ niệm đến thế! - Cúc Tần nói.
- Có kỉ niệm mới là sống. Sự giàu có của đời người đích thực là vốn liếng kỉ niệm, và là kỉ niệm đẹp.
- Nhỡ kỉ niệm xấu, đáng buồn thì sao, dẫu biết chả ai muốn thế? - Cúc Tần nhẹ nhàng cười, mong Niên đừng hiểu lệch.
- Thì phải biết tự bù đắp kỉ niệm đẹp. Tâm thức, kể cả vô thức, tiềm thức là một ống kính vạn hoa. Có ai ném vào đó những mảnh đen tối, bẩn thỉu thì phải biết chủ động gom góp, chắt chiu những kỉ niệm đẹp, lóng lánh tình yêu, tình bạn, tình người, để tất cả đều chuyển hóa thành ánh sáng nhiều màu. Một cuộc đời rỗng tuếch, không có kỉ niệm, sao bằng một cuộc đời đầy ắp kỉ niệm đẹp, dẫu có thể có dăm ba kỉ niệm tệ hại. Hãy biết làm đẹp tâm thức bằng kỉ niệm đẹp.
- Như vậy, sao anh Niên nhỉ, cứ sống hết mình để có nhiều kỉ niệm đẹp, và đừng sợ bị lẫn vào dăm kỉ niệm xấu có thể gặp phải? Làm đẹp cả vô thức một cách chủ động?
- Ờ, đúng rồi. Đừng sợ. Phải biết chủ động.
- Một nghệ sĩ lớn có nói: ''Đừng sợ sống!'' (7). Thế thì phải bản lĩnh lắm. ''Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn'' và nghèo kỉ niệm nữa. Nhưng kỉ niệm nào đẹp nhất?
Niên giật mình:
- Cũng tùy - anh đáp qua chuyện. Anh muốn quên hết bao khát vọng văn chương của người dạy văn, viết văn, và bao khát vọng to lớn cho đời (cho con người, cho thiên nhiên) của bao người khác - Lúc này, những cảm xúc chờ trăng bên sông, với chỉ riêng hai người, là đẹp nhất - Niên chỉ dám phiếm chỉ, nói tiếp.
Cúc Tần im lặng. Đêm tối dần trên sông. Mặt sông đen sẫm. Aằnh sáng từ nhà thủy tạ, từ bờ sông hắt xuống, lấp loáng. Đèn từ tàu thuyền thắp lên ngoài xa kia. Khu biệt thự đang xây dựng bên kia sông sáng đèn cho ca đêm. Cầu Sài Gòn như chiếc cầu vồng bảy sắc vắt ngang trời, nhưng lúc này rất huyền ảo vì trời đang đêm. Người tạo hóa đẹp hơn trời tạo hóa đấy nhỉ! Và trăng mười lăm tinh khiết, rạng rỡ nhô dần lên phía trước mặt. Trăng rằm tháng ba trên sông! Cúc Tần chợt nhớ hai câu ca dao có lẽ từ quê hương yêu dấu của Niên: ''trăng lên tới đó rồi tề, nói chi thì nói mà về kẻo khuya''. Cô thú vị một mình về niềm khao khát bày tỏ của chàng trai, cô gái nào xưa.
Nơi đây, khuôn viên của tiệm cà phê này, rộng gấp mươi, mười lăm lần Lá Xanh, với bao nhiêu là cây xanh, cỏ xanh, với bao nhiêu loại hoa nữa, với nhiều lối đi trải sỏi, lát gạch, với cơ man nào bóng đèn ẩn và hiện, với hàng rào hay lan can sơn trắng. Khách tha hồ chọn cho mình cõi riêng. Tiếng nhạc dịu nhẹ lan tỏa. Người vào đây quên ý niệm thời gian.
- Này, Từ Thức, theo lịch mặt trời hôm nay là mấy, anh nhớ không?
- Quên rồi. Biển và Thạch Na nhớ giùm.
- Gọi là ''Ngày Biển - Thạch Na'' đi, nghen anh Niên! - Cúc Tần khẽ rùng mình vì gió sông hay vì điều gì không rõ. Cô vội lãng tránh:
- Anh Niên, lạc vào huyền thoại, khi về buồn lắm đó nghen.
- Đừng cả lo - Niên thầm thì - Rồi Từ Thức sẽ quay lại, nếu Giáng Hương cứ ở đây hay thỉnh thoảng ở đây.
- Ngày xưa, người ta chán đời ghê nhỉ, anh Niên? Cứ muốn bỏ trần gian!
- Người xưa giàu mộng mơ hơn bây giờ. Họ thèm sống, muốn không còn thời khắc, tuổi tác. Sự thật là họ cần thư giãn bằng huyền thoại. Bây giờ, huyền thoại là sự thật mình đang ngồi với nhau, lúc này, tại đây. Cúc Tần có thích sáng tạo huyền thoại cho mình lúc này, tại đây, và lúc khác, nơi nào đó không? - Niên thầm thì.
Cúc Tần giấu một thoáng rùng mình ngỡ đang đọc một bài thơ tình như kinh tình yêu. Cô không ngờ câu nói của cô đã rất táo bạo.
- Rồi trở về với sự thật sẽ buồn lắm. Sẽ bạc tóc vì buồn, và hối tiếc, tủi giận! - Cúc Tần chữa lại với một chút xấu hổ.
Niên chợt hiểu ý hồi nãy của Cúc Tần. Anh nhíu mày, tỏ vẻ không hài lòng vì sự đính chính của cô:
- Sự thật này là huyền thoại này.''Cái gì đến, sẽ đến'', Cúc Tần à! Sự thật chưa làm bạc tóc, đã thấy âu lo quá xa làm bạc màu huyền thoại!... Trước đây, có lúc anh ngỡ Lá Xanh là Thiên Đường. Sau đó, chỉ có người yêu mến mới là Thiên Đường. Người ấy ở đâu, Thiên Đường ở đó! - Niên nói thành lời điều lâu nay chỉ nằm trong đầu anh.
Cúc Tần mỉm cười. Niên thấy ánh sáng long lanh trong mắt cô, và chan hòa dìu dịu trên gương mặt cô, xinh đẹp, huyền ảo. Bên kia sông, trăng đã nhô cao, tỏa sáng khắp mặt sông đầy sóng. Niên sững sờ. Anh muốn giữ chắc trong mắt, trong tay vẻ đẹp huyền thoại của một cõi thiên đường, bồng lai hiện tại. Niên ngơ ngẩn với ý tưởng này. Anh hồi hộp, ngần ngại.
- Giá như cách đây hơn mười năm, hồi em còn sinh viên, anh chưa lập gia đình, mình gặp nhau, anh Niên hén? - Cúc Tần nghèn nghẹn, tiếc nuối.
- Đừng ''giá như'' nữa mà! - Niên nói như vỗ về - Kỉ niệm, phải biết chắt chiu, nhưng kỉ niệm vẫn còn nhiều lắm ở tương lai... - thật ra Niên cũng dối lòng mình. Chẳng biết sự lo xa có là nữ tính không, và có phải thực tế đến rầu lòng, lúc này, trường hợp này, khung cảnh này, cũng là nữ tính? Nữ tính ấy đang thể hiện ở Cúc Tần?
Niên nói:
- Đừng sợ. ''Đừng sợ sống'', nghe Cúc Tần.
Và Niên nghiêng người nắm chặt tay cô đang đặt trên bàn. Anh nghe tay cô mềm hẳn trong tay anh. Bàn tay ấy chừng như run lên nhè nhẹ. Vẫn nắm lấy tay Cúc Tần, Niên rời khỏi ghế. Anh quỳ một chân trong thế ngồi trên gót của chân ấy, hai tay nâng bàn tay cô.
- Đừng. Đừng anh, Niên!
- Cúc Tần! - giọng Niên như van vỉ.
- Không! Đừng, anh Niên!
Niên ngước mắt lên nhìn gương mặt xinh đẹp của Cúc Tần, với một niềm ngưỡng vọng xen lẫn với say đắm. Chẳng hiểu sao anh không thể liều lĩnh trước gương mặt ấy. Cơ hồ anh nhìn thấy ánh trăng trong mắt cô, ánh trăng tình yêu.
Niên có cảm tưởng anh ngồi mãi vậy, nắm bàn tay cô với cả hai tay như nâng niu. Anh đánh bạo đặt bàn tay ấy xuống hai đầu gối cô đang khép lại trên ghế. Anh thấy cô rùng mình như thể sắp gập thân hình xuống trên vai anh. Anh chờ giây phút ấy để dang vòng tay, vừa đứng dậy ôm lấy, vừa đỡ cô cùng đứng dậy.
- Đừng. Niên. Anh nghe không! - giọng Cúc Tần nghiêm lại.
Cúc Tần nghe lời cô năm nào dặn dò Thạch Na: ''Cái gì đến, sẽ đến, và đến đúng lúc của nó''. Ngạn ngữ ấy đang vọng lại cho chính Cúc Tần. Cảm giác run rẩy, nóng bừng trong cô dịu lại, lạnh đi.
Niên trở về chỗ ngồi. Thật ra, Niên chỉ muốn đọc trái tim Cúc Tần bằng chính đôi tay, bằng chính bờ môi của anh trên gương mặt cô như một người mù. Có ai không mù trước trái tim người mình yêu? Để thật tin mình được yêu, mắt đọc vào mắt chưa đủ! Hay đấy chỉ là kinh nghiệm của những thị dân mấy thập niên trước, lúc cái cầm tay, nụ hôn đã là tất cả? Hay đấy là bản chất của người đàn ông muốn chiếm hữu người mình yêu dấu, muốn khẳng định bản năng của phái mạnh - một cách biểu lộ mang tính thời thượng? Có phải chất men say của tình yêu đã vượt quá liều lượng của cảm giác cầm tay, cảm giác của ánh mắt chạm vào ánh mắt? Và cơ chừng không thể đọc bằng cảm giác nào được nữa, dù đã đến mức cuối cùng của cường độ cảm giác? Tất cả đều sáng mắt nhưng đều mù trước tình yêu...
Lúc ấy, đầu óc Niên trống rỗng. Tất cả những câu hỏi như mớ bòng bong trắng xóa đến vô hình, vô nghĩa làm nên sự trống rỗng. Niên đâm ra mất tự tin đến buồn rầu. Và sự từ chối một nụ hôn có khi rất nhiều ý nghĩa, trong đó có nghĩa nào đó cũng tầm thường! Niên cảm nhận tất cả bằng sự trống rỗng.
Niên cũng tầm thường ngồi đó. Anh ấp úng xin lỗi Cúc Tần. Cúc Tần cũng thấy sự tầm thường của Niên? Niên trống rỗng một cách rối rắm.
Thôi nhé, đừng cảm nhận tính chất tầm thường của mọi sự nữa, Niên tầm thường nghĩ vậy và tầm thường mỉm cười.
- Xin lỗi Cúc Tần... Anh chỉ muốn đo lường tình cảm ở em... Anh xin lỗi vì sự thô lỗ của anh... - Niên ấp úng.
Cúc Tần im lặng. Niên nhìn qua, thấy Cúc Tần đã ngồi lùi sâu vào ghế, khuỷu tay chống lên bàn, tì gương mặt vào lòng bàn tay, mái tóc dài buông xõa che hết. Cô không còn ở tư thế hồn nhiên, vừa ngồi, vừa như thể vươn ra trước để đón lấy vầng trăng đang cao dần trên sông. Niên muốn hiểu lúc này Cúc Tần đang nghĩ gì về anh.
Niên chờ đợi một câu nói từ cô. Sự im lặng của Cúc Tần khiến anh rơi về ý nghĩ hồi nãy. Chẳng lẽ mặt trái của phút giây lãng mạn huyền thoại là cả một mớ những câu hỏi duy lí phũ phàng! Niên cố gắng xua đi bao dấu hỏi truy tìm, phân tích lạnh lùng đến thô bạo trong anh. Đấy là mặt trái đáng buồn trong anh đó sao!
Cúc Tần khe khẽ đứng dậy. Không nhìn Niên, cô bước ra lan can bên mé sông. Bây giờ, Niên mới nghe rõ tiếng sóng nước vỗ vào kè xi măng trong tiếng nhạc thanh thoát. Cúc Tần tựa vào trụ sắt trắng, nhìn ra xa. Trong chiếc áo dài màu tím sáng, dáng cô cao lên, thon thả và đầy đặn, tóc đen mướt, lóng lánh ánh đèn, đang bay bay với gió.
Niên ngẩn ngơ ngồi ngắm. Nơi này, khuôn viên quá rộng nên đông khách vẫn như vắng khách. Niên ngỡ như chỉ hai người trong căn nhà của nhau. Niên nghe dâng lên trong anh cảm xúc về vẻ đẹp của Tình Yêu, một cảm xúc huyền thoại.
Anh đứng dậy, khẽ bước đến bên cô. Dãy đèn từng chiếc nhỏ như giọt mưa từ mái quán rơi xuống vì thay nhau chợt sáng chợt tắt, ngỡ chợt có chợt không, lung linh ánh sáng trên gương mặt cô. Cúc Tần vẫn hiền dịu nhưng mắt xa vời. Niên run lên vì thương mến. Một lần nữa, anh muốn gọi thầm tên cô, áp hai lòng bàn tay vào đôi má trắng mịn có thêm chút son phấn đêm nay, và khẽ cúi hôn lên môi cô nụ hôn đầu say đắm và cuống quýt nhất. Có lẽ kinh nghiệm bảo anh rằng, anh không nên đứng yên như vậy, người nữ đang chờ bản năng phái mạnh ở anh để khẽ vùng quẫy, rồi lịm đi trong vòng tay anh, rồi có thể trào nước mắt xúc động, rồi có thể lại ôm chầm lấy anh như bày tỏ sự phó thác cuộc đời lên vai anh, không bao giờ còn chia lìa nhau được nữa. Nhưng Niên vẫn đứng yên. Gió sông lồng lộng thổi. Niên cúi xuống nhìn những cụm lục bình nhuộm ánh đèn, dập dềnh với củi rều từ thượng nguồn về bên kè xi măng, có vài mảng đã bong lở phơi bày đá khối.
- Cúc Tần! - giọng Niên bỗng da diết.
- Em nghe anh Niên đây! - Cúc Tần hồi hộp.
- Anh xin lỗi em... - Niên hiểu mình lặp lại câu xin lỗi quá thừa. Cúc Tần thở dài, vẫn nhìn ra xa.
Lát sau, Cúc Tần nói nghèn nghẹn:
- Anh coi thường em... Không thể trắc nghiệm mức độ tình cảm ở nhau như vậy... Anh thừa biết tình cảm gì em dành cho anh mà! Nhưng rất tiếc... - cô ngừng lại, muốn nói rõ để anh yên tâm - Chúng ta yêu nhau... Thật lòng, dẫu anh đối với em bằng loại tình cảm gì đi nữa, em vẫn yêu anh. Em yêu anh. Em nói điều đó đâu cần anh hỏi! Nhưng chúng ta, không cách nào khác, vẫn cứ là bạn bè với nhau... - Cúc Tần cắn chặt môi nhìn ra xa như nhìn trừng trừng vào bóng tối lẫn với ánh trăng rằm trên sông. Cô không muốn là Xúy Vân bên sông (8)!
Niên tê điếng đứng tì vào lan can, tay bấu vào thanh sắt.
- Anh Niên, vậy nghen anh! - giọng cô dịu lại, buồn buồn - Anh Niên nhớ không, những chuyện tình như chuyện chúng mình, ở những tác phẩm văn chương kinh điển, đều kết thúc bằng... tự tử... Đấy là tình yêu đích thực, đạo nghĩa đích thực, do đó không lối thoát. Véc-te của Gớt, An-na của Tôn-x-tôi, bà Bô-va-ry của Phơ-lô-be (9)... Tình yêu đương là tình của hai người, chỉ của hai người. Người này là tất cả của người kia...
- Thôi, quên đi, Cúc Tần... - Niên ngắt lời. Niên bực bội cảm nhận Cúc Tần muốn nói anh chỉ là kẻ giả dối, anh chưa hiểu thế nào là tình yêu, anh yêu cô như một trò đùa, và anh thiếu dũng cảm để dứt khoát chọn lựa. Anh cũng hiểu cô không thiếu thông minh trước tình huống oái oăm của trái tim, và trái tim cô không thiếu nhân hậu. Niên cũng nghĩ theo cách của anh: tình cảm cũng chịu sự ước định xã hội, sự chứng tỏ tình yêu đích thực bằng tự tử là ngu ngốc!
- Trái tim đàn ông rộng lớn hơn em tưởng! - Niên buột miệng một điều thầm kín, dằn vặt suy nghĩ đã lâu và từ lâu bế tắc.
- Không! - Cúc Tần bỗng quyết liệt - Không thể!
Cúc Tần quay phắt lại, cố dịu giọng:
- Mình về đi anh. Mặc cho trái tim của anh, của em, chúng ta là bạn. Hãy đo lường, trắc nghiệm tất cả bằng thời gian.
- Khoan đã, Cúc Tần!
Trở về với thực tế, Cúc Tần nói:
- Về thôi, anh. Đêm nay chỉ mẹ con Hòa Bình ở nhà. Không biết có mở cửa bán cà phê không. Sợ buổi tối, một mình, Hòa Bình sẽ lúng túng, không bưng dọn kịp... Thật bất ngờ, không ngờ tối nay lại... lạ lùng như vậy.
Niên đành gật đầu. Anh có dự cảm về một sự tan vỡ, Cúc Tần mãi là một khát vọng.
Niên quay lại, bấm vào nút báo hiệu cho tiếp viên tính tiền. Đợi Niên cho tấm hóa đơn vào túi áo, Cúc Tần bước ra lối đi lát gạch, rồi chậm bước chờ Niên.
- Quên sách vở đi, cô giáo ơi. Tình cảm và hôn nhân chỉ là khế ước xã hội, tùy nơi, tùy thời đại, tùy vào quy luật tự nhiên của giới tính. Thôi đừng huyền thoại lãng mạn nữa, nếu nói rõ, với khả năng của bệnh viện Từ Dũ hiện nay, đàn bà đã thắng quy luật tự nhiên về giới tính. Họ biết họ có con với người chồng nào vì họ làm chủ được sự thụ thai và sinh nở. Đa thê và đa phu.
Cúc Tần sửng sốt. Cô muốn chạy thoát gã đàn ông được gọi là nhà văn này để gọi một chiếc tắc xi về nhà. Nhưng Niên nắm chặt tay cô trước khi thực hiện ý định.
- Em hãy khinh anh đi, Cúc Tần! Trong anh có một phần kinh tởm của sự trắng trợn ngu ngốc. Nói vậy, nhưng anh biết bằng chính lương tri anh, là không thể như vậy... - Niên thở hắt - Cảm ơn em đã dạy anh làm một con người chân chính. Cảm ơn em đã mở cho nhau một lối thoát chính đáng. Phải bản lĩnh hơn để thanh thản cùng nhau bước trên lối thoát ấy.
Tay Cúc Tần mềm lại trong tay anh.
- Về thôi, anh. Chúng ta không còn ở tuổi khó nói với nhau những điều như vậy. Thôi, quên, quên, quên. Về thôi, anh Niên! Đừng đứng ở đây thế này, kì lắm. Có nhiều người nhìn rồi đấy, anh!
Niên siết tay anh vào chính tay anh:
- Vẫn yêu nhau với giao ước chúng ta là bạn, nghe Cúc Tần?
Cúc Tần gật đầu. Cô im lặng.
- Yêu nhau với hai trái tim của hai người tình, nhưng chúng ta vẫn là bạn trong giao tiếp? - Niên muốn khẳng định rõ tình cảm yêu đương của anh, dù đấy là ý kiến của Cúc Tần, và mong cô đừng đổi ý, hoàn toàn xa lánh anh.
Hóa ra những lối thoát tình yêu muôn đời vẫn cũ. Khẳng định với nhau về một giao ước đã cũ ấy, nhưng thật lòng Niên không vững tin. Rồi một mai Cúc Tần sẽ lấy chồng, chẳng lẽ vẫn yêu nhau như ''hồn bướm mơ tiên''! Có nên hoàn toàn xa lánh nhau cho nhẹ lòng nhau?
Khi xe chạy qua cầu kinh, Niên nói:
- Kiếm một quán ăn để ngồi với nhau chốc nữa nghe Cúc Tần?
- Thôi, về đi anh. Tội nghiệp mẹ con Hòa Bình.
Niên buồn rã rời. Chiếc xe máy của anh chầm chậm về Tân Bình. Đường Bạch Đằng nối dài bằng Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, khá thẳng với xe cộ ngược xuôi dưới ánh đèn.
- Anh đã ngu ngốc, từ ngu ngốc này đến ngu ngốc khác. Đừng giận anh nghe Cúc Tần.
- Anh không hề ngu chút nào. Em quý sự thành thật và đúng mức, ngốc à!
Niên thử lại tình cảm của Cúc Tần:
- Mai anh lại đến Lá Xanh với em nghen?
- Mai, và mốt, và kia, và bất kì lúc nào. Yên tâm đi, ông mãnh! - Cúc Tần cười trong trẻo, hồn nhiên.
Mừng quá, Niên buột miệng:
- Cảm ơn, bà mãnh! Bà mãnh muôn năm!
Cả hai cười rất giòn. Có vài người đi xe gắn máy kề bên quay lại nhìn họ. Cúc Tần bỗng sợ có người quen hay học sinh nhìn thấy cô đang ngồi sau lưng Niên.
Đêm đó, sau khi rửa dọn li tách, dồn bàn ghế vào căn bếp, đẩy tủ có bánh xe đựng máy truyền hình, máy băng hình vào phòng khách, đóng cổng và đóng cửa, Cúc Tần cùng Hoà Bình xem lại giáo án. Những công việc thường lệ cuối mỗi ngày vẫn chấm dứt lúc mười một giờ. Hòa Bình nằm bên con và chị họ của chồng, mỉm cười với những hình dung dí dỏm trong đầu. Cúc Tần cực kì xúc động, thao thức đến gần lúc nửa đêm, cố giấu những giọt nước mắt.
Đêm đó, Niên cứ đi lui đi tới trong phòng ngủ. Đặt lưng xuống giường anh vẫn không ngủ được. Anh ngồi trong mùng tập khí công để điều hòa những xáo động trong hồn, đến khi đổ gục xuống cạnh Bông Trang. Bông Trang vẫn vô tư ngủ với gương mặt quá đỗi hồn nhiên của một cô giáo trung học tỉnh lẻ đã mười năm ném viên phấn khỏi tay, quên hết chữ nghĩa, bởi rắc rối do bà con ruột thịt, và theo cơm áo chồng con. Một cô gái phù sa miền châu thổ đã cằn cỗi dần giữa phố phường đắt đỏ, lo toan, duy nụ cười vẫn trẻ thơ, hồn hậu ngay cả lúc đang ngon giấc.
CHƯƠNG BA
1
““Cúc Tần thân yêu,
““Sáng nay anh đến Lá Xanh với những trang rời của xấp bản thảo. Anh không biết có nên xếp nó vào loại gì hay không. Tuy nhiên, quan trọng gì đâu việc định danh theo thể loại. Đó chỉ là những trang hồi tưởng của một nhân vật hư cấu. Nhân vật ấy là ai, điều đó lại càng không quan trọng, dẫu được hư cấu từ nguyên mẫu có thật. Có điều, nguyên mẫu ấy đã được biến đổi, cộng với nhiều tưởng tượng để trở thành một người khác.
““Nhân vật ấy đã ám ảnh anh đến đau đáu những năm anh sắp bước vào lứa tuổi hai mươi, trước ngày đất nước được thống nhất. Những câu văn của anh, ở tuổi đó, mỗi chữ đều muốn ''hát'' lên!
““Cúc Tần đã nhiều lần bảo anh mang tới để em đọc. Anh ngần ngại vì nhiều lẽ, trong đó có một lẽ là xấp bản thảo này được viết lại từ một xấp bản thảo đã bị tịch thu, có thể đang còn được lưu trữ ở đâu đấy. Nó đã xô đẩy anh vào một bước ngoặt. Một kỷ niệm buồn đau và buồn cười thế đó xảy ra năm anh hai mươi ba tuổi! Chả là, với bản thảo mười tám tuổi, anh dẫu sao vẫn còn ấu trĩ lắm. Sự ấu trĩ còn ở người tịch thu bản thảo nữa. Bây giờ, những tấm lòng đã rộng mở, những con mắt đã sáng hơn, khoan dung hơn. Rộng mở, sáng, khoan dung, dẫu muộn nhưng vẫn hơn những từ phản nghĩa.
““Năm tháng qua đi, những bức xúc, cay đắng cũng trở thành kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào. Thời gian có lòng nhân hậu của nó.
““Những trang bản thảo này, trước đây, cách đây hơn hai mươi năm, với anh chỉ là kỉ niệm đã trở thành văn. Ngay đêm trước ngày bị tịch thu, anh vẫn nghĩ đó chỉ là kỉ niệm của một thời dại khờ. Sau ngày bị tịch thu, và ngay ngày hôm nay, khi viết những dòng chữ này ở Lá Xanh cho em, bạn thân mến, anh vẫn thành thật nghĩ không khác hơn. Anh đã viết lại những dòng chữ của một thời cảm nhận mọi sự còn dại khờ xa xưa, với cách nhìn vừa của gã con trai mười tám, mười chín tuổi, vừa của người đàn ông nay đã vào tuổi bốn mươi hai.
““Có thể em thất vọng. Anh nào giấu giếm sự ấu trĩ của anh tuổi mới bước vào trường đại học ấy.
““Bạn thân mến,
Tiếc quá chừng là sáng nay không gặp được Cúc Tần ở Lá Xanh. Hòa Bình bảo Cúc Tần qua thăm ba bên quận Ba.
““Thôi thì hí hoáy vài dòng. Chúc Cúc Tần - người bạn thân mến của anh - sẽ không đổ bệnh và bớt xinh đẹp, dịu dàng, thông minh, khi đọc những trang rời bản thảo này.
““Niên.
““T.B.: Điều làm anh đau đớn, bức xúc hồi anh bị tịch thu bản thảo là gì, Cúc Tần biết không? Thương cho anh và buồn cười cho anh hồi đó lắm, là bị xâm phạm đến kỉ niệm! Chỉ có thế! Có bao kỉ niệm tầm thường, với anh, cũng mãi là báu vật, nhất là khi trở thành trang viết!””
2
Hồi ấy, mới bước chân vào ngưỡng cửa đại học, tôi dự cảm cuộc đời mình sẽ rẽ qua một chặng đường khác, khác hẳn mười tám năm trên lối cũ. Không phải khác mái trường, nơi chốn. Cái khác, ấy là sự đổi đời. Một tôi sẽ phải chết đi, để một tôi được nở sinh vào một kiếp khác. Chết. Khi có ý niệm đó, nghĩa là còn tiếc nuối được sống với mười tám năm đã trở thành quá vãng. Nở sinh. Đấy là ý niệm thèm sống, được sống mới hẳn, với một thân phận mới tinh khôi. Vừa tức tưởi, vừa hân hoan. Rồi nhanh chóng thôi, hân hoan lấn át tức tưởi.
Trong những ngày cô đơn và cô độc, tôi đã viết như trút bỏ hết quá khứ mười tám năm trên trang giấy. Tôi đã hình dung ra một Gương Mặt Tình Yêu để chia sẻ nỗi niềm. Tất cả những gì đã được cảm nhận, trải nghiệm suốt mười tám năm đã trở thành một nhân vật trữ tình - tự sự hư cấu.
Tôi, nhân vật tự xưng ở ngôi thứ nhất ấy, kể lể ngậm ngùi, triết lí buồn bã, với một nhân vật khác được gọi bằng đại từ Nhỏ : Nhỏ thân yêu, hay Bé Con yêu dấu!
Tất cả được viết dưới ánh sáng của nỗi buồn, ánh sáng ảm đạm, để rồi cuối cùng được sáng lên ánh sáng của hi vọng.
Tôi đã bắt đầu dòng chữ thứ nhất bằng một băn khoăn về điểm khởi đầu của một phận người. Nhân phận hay thân phận, danh từ ấy là tên gọi khác đi về Kiếp Người. Sao ngày xưa, ngàn năm xưa, những chữ ấy buồn đến thế, gợi nên cả một trời bi đát. Sống là buồn, là trả nợ, là nghiệp. Và cái nghiệp của tôi, bi đát như nghìn nghìn triệu triệu cái nghiệp khác, khởi đầu từ đâu? Từ một Tình Yêu của Cha và Mẹ? Từ một ngẫu nhiên hân hoan hay tình cờ đau đớn?
Cha và mẹ tôi ngày ấy có thật lòng yêu nhau không nhỉ? Họ phải lòng nhau từ giây phút nào, nơi chốn nào? Tôi tin nhân phận tôi khởi đầu từ phút ấy, nơi chốn ấy. Tôi cứ hình dung những khoảnh khắc trao tình, ngỏ ý trong ca dao. Cha đã ngã cành hoa hồng cho mẹ sang sông? Cha đã xin cắt cỏ cùng mẹ để chung tình làm đôi? Hay từ ép uổng nào, mẹ khóc thầm ở xó bếp, cha gầm lên tủi hận giữa đồng khô, động cát?
Làm sao tôi biết được! Cũng không làm sao tôi biết liệu mẹ và cha có chăng cùng nhau nỗi ngọt lịm huyền ảo của trăng với mật! Nhân phận tôi, cái nhân phận xác thịt xương cốt này, khởi từ giây phút âm dương nào? Ngọt hay đắng? Nồng nàn hay lạnh nhạt? Vằng vặc huyền ảo hay tối tăm thô thiển?
Có một điều chắc chắn là tôi được chào đời vào một buổi sáng mùa mưa. Với một cảm quan nào đó, mưa như một nỗi buồn đằng đẵng - mưa Miền Trung lê thê như một định mệnh. Tôi không tin vào tiền định. Tôi cũng không tin thời tiết như một tác nhân siêu hình. Mưa, sau này, năm mười tám tuổi, mãi sau này, vào tuổi bốn mươi hai, mưa là biểu tượng của một bối cảnh. Mưa, có tội tình gì bao giọt nước rơi rơi, bay bay, nhẹ như tơ hay nặng hạt giữa trời. Ở Quảng Trị, các tỉnh gần đó, vào mùa mưa, người ta sợ mưa, mưa bợt người, mưa không cất mặt lên nổi, mưa đến sốt ruột buốt gan, người ta cũng khát mưa đến cuồng dại giữa mùa nắng hạn, sông phơi lòng, nứt nẻ đến mức chân trâu cũng sỉa xuống vết nứt ấy, hoặc nhớ mưa mùa đông đến quay quắt, ngẩn ngơ, bồi hồi. Nhưng dẫu sao, mưa với tôi vẫn là một bối cảnh buồn, có vui chăng lúc nào đó, cũng là niềm vui trầm lắng, thấm thía, ở một văn cảnh nhất định. Đấy là cảm nhận về mưa, và mưa như một biểu tượng của riêng tôi. Tôi không tin cơn mưa sáng hôm tôi chào đời làm nên bản chất đời tôi một cách ngây ngô.
Mười tám tuổi, tôi muốn tìm cách định nghĩa cái tôi của mình. Tôi cũng ước ao sao, chính tôi là kết tinh của phút ngỏ tình trong ca dao, bởi lẽ cha tôi là nông dân thuộc loại lực điền, mẹ tôi là thôn nữ xinh đẹp. Tôi cũng ước ao sao, tôi chính là kết tinh của trăng vằng vặc, huyền ảo hòa hợp với chất ngọt lịm của mật. Và thú thật, tôi âu lo về cơn mưa
khoả ngập cả tiếng khóc chào đời của tôi năm nào xa lắc ấy một cách vớ vẩn.
Đó không bao giờ là một cách định nghĩa khoa học đến tuyệt đối. Tôi biết vậy. Trong chừng mức nhỏ thôi, tính chất của ba khoảnh khắc ban đầu để làm nên một nhân phận, một kiếp người, tôi hi vọng không sai.
Tôi hiểu tôi đã định nghĩa chính mình với đôi mắt thơ ca.
Bây giờ, khi đã đứng tuổi, viết những dòng chữ này, tôi mỉm cười với những ''vì sao'' thuở ấy, năm mười tám tuổi.
Sống, ai khờ khạo gì cứ đăm đắm hồn mình vào dĩ vãng, dẫu dĩ vãng thế nào đi nữa. Nhưng sắp bước vào tuổi mười chín, trước phút đổi đời, chết đi để lại được nở sinh , tự khai sinh lại đời mình, tôi đã ngậm ngùi vĩnh biệt tôi thế đấy. Và băn khoăn ấy là những trang đầu của xấp bản thảo.
Gương Mặt Tình Yêu ơi, em là nhỏ thân yêu, là bé con yêu dấu của tôi năm ấy và mãi sau này, dẫu em không hề có thật. Em có nhớ em đã chia sẻ giúp tôi và cùng tôi băn khoăn ấy không? Có nhớ cho nhau không, Thượng Đế yêu dấu của trái tim tôi, năm mười tám tuổi? Một em của nỗi cô đơn đã tưởng tượng ra, một tôi của niềm cô độc đã hư cấu nên. Một em của khát vọng tình yêu đương, một tôi của chất thơ trong những trang văn xuôi thuở đó. Em còn nhớ không?
Chắn chắn tôi không phải là gã con trai bệnh hoạn say đắm bóng mình trên làn nước. Em không phải là phiên bản của chính tôi. Em đã kết tinh trong tôi thành Gương Mặt Tình Yêu tự bao giờ, từ những ngọn nguồn nào? Tôi cũng tìm cách định nghĩa chính em. Em còn nhớ không?
3
Em yêu dấu,
Thật ra, có lúc tôi đã nghĩ, mỗi một con người đều được kết tinh từ những ngọn nguồn có thể đã hàng vạn năm. Em hiện hữu từ nỗi cô đơn và niềm thèm được yêu trong tôi cũng có thể đã hàng vạn năm như thế. Có điều, bao người có thật như họ có thật, còn em là hình tượng của khát vọng xóa lấp cô đơn. Em hãy cùng tôi nhớ lại những trang kỉ niệm...
... Có thể mỗi con người đã cảm nhận cuộc đời từ lúc mới chỉ là hạt máu hồng trong lòng mẹ. Nhưng để ý thức lờ mờ, hồn nhiên về cuộc đời chung quanh, mỗi người phải đợi đến năm mình hai tuổi.
Tôi không cách nào nhớ được bước chân đầu tiên chập chững có lẽ trên nền nhà bằng đất của một mái tranh.
Năm được lên năm, kí ức đã hình thành rõ rệt. Tôi tin rằng trước tuổi lên năm, có thể các cảm nhận, nếu có, đều thành vô thức.
Mái nhà tranh mẹ tôi sống góa bụa ở một làng quê với một người dì xa vắng chồng, lúc tôi năm tuổi, đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ.
Năm ấy, trong một tối trời mưa, vẫn là mưa mùa đông ở Quảng Trị... Ngọn đèn thắp sáng chỉ là ngọn đèn nhỏ, bóng đèn bé bằng quả trứng vịt. Khi tôi được bế lên giường, nằm cạnh mẹ, còn mẹ cạnh dì, bấc đèn được vặn thấp để chỉ còn lại đầu bấc một chấm lửa xanh biếc hơi hoe vàng. Tôi đã ngủ đẫy giấc lúc trưa nên đến lúc đó vẫn còn thức. Hơn nữa, mùa đông mưa rét, người ta lên giường sớm lắm. Nằm trên giường, đắp chăn, nghe mưa rơi và gió rít bên ngoài.
Tôi nghe tiếng dì thở dài:
- Mưa buồn quá. Năm nay trời lại lạnh hơn năm ngoái.
Mẹ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài đã từ lâu nén trong ngực:
- Ừ, buồn. May là không bão. Cứ sợ bão xô cửa, xô nhà. Nhà không có đàn ông...
- Anh mất rứa cũng đã ba năm rồi, phải không chị? Cơ khổ, hồi anh bệnh... - dì chậc lưỡi.
Hình như mẹ gác tay lên trán, lại thở dài:
- Kiếp người ta có số, có phận cả. Số tôi mẹ góa, con mồ côi.
- Số em số đợi, số chờ... - dì tôi nghèn nghẹn - Hai chị em mình răng khổ rứa!
Tôi nghe hình như dì khóc tấm tức.
- Đừng khóc nữa dì - mẹ tôi an ủi - Dì vẫn mau khóc, nhạy nước mắt như hồi nhỏ. Ít lâu nữa, dượng về.
- Nói hai năm, đến chừ đã bảy năm rồi! Không chừng có vợ, có con ngoài Bắc rồi! Lại không thư từ chi cả! - giọng dì như hờn dỗi, tủi thân - Chiến tranh chặn cả đường thư từ!
- Nhưng có chờ, có đợi vẫn hơn không! - mẹ nói khẽ.
- Thà là không! Không như anh là khỏe lòng! Cơ chi em có được đứa con như chị - hình như dì trở mình quay mặt vào vách đất - Không như anh, thà chỉ nhang với khói thôi...
- Dì đừng nói dại! - mẹ tôi lại an ủi - Không là thành đất. Không như cha thằng cu đây thì buồn hơn.
Im lặng một lúc lâu, tôi không nghe mẹ hoặc dì nói gì nữa. Mưa và gió vẫn bay, vẫn lạnh buốt bên ngoài.
- Mưa gió buồn quá! - mẹ thở dài - Ngủ đi dì, thức chi thêm buồn.
- Em cứ muốn lên giường là ngủ liền, mà không ngủ được! Không biết khi mô mới thống nhất!
- Dây lạc tiên phơi khô, răng dì không sắc mà uống? Quên đi. Khi mô dượng về thì về, nhớ với thương chi cho mất ngủ.
- Nói đi tập kết ra Bắc hai năm mà rứa đó! - dì ấm ức.
- Thôi, quên đi - mẹ nói - Rồi dượng về... Ngủ đi! Tôi ngủ đây, nghe dì! - có lẽ mẹ muốn dì đừng khóc nữa.
Và tôi cũng chìm dần vào giấc ngủ.
Sau này, khi lớn lên, tôi mãi còn nhớ giọng thì thầm, buồn rầu của mẹ, giọng nghẹn ngào, da diết, hờn dỗi của dì, trong đêm mưa ấy. Đấy là lần đầu tiên tôi biết không cha, cha đã mất là một nỗi buồn, và thương nhớ, thương đến cứa lòng, nhớ đến đứt ruột một người xa vắng, không tin tức, thư từ cũng làm người ta rơi nước mắt hay vu vơ hờn dỗi. Có lẽ đấy cũng là lúc tôi cảm nhận ý nghĩa thơ ca của mưa lạnh và đêm tối.
Gương Mặt Tình Yêu ơi, em nhớ không - mỗi người có thể chăng định nghĩa về chính mình bằng những ấn tượng kí ức thuở ban đầu như thế, cùng với những kỉ niệm không thể nào quên sau này, nhất là thời mới lớn, năm tháng thanh niên? - điều tôi chia sẻ cùng em năm mười tám tuổi?
4
Nhỏ thân yêu,
Như em đã biết đó, ấu thơ của tôi hồn nhiên mà đìu hiu với dì và mẹ, hai người đàn bà chưa vượt qua tuổi ba mươi đã sớm già nua, héo hắt bởi cô quạnh, đau buồn, thương nhớ. Tôi không thể quên được màu đen, màu nâu, hai loại màu sắc buồn như muốn lẫn vào với bùn đất, mẹ và dì thường xuyên mặc quanh năm, chỉ trừ mỗi ba ngày tết. Năm tuổi, chưa vào được đầu cấp tiểu học, mẹ đã gửi tôi vào lớp vỡ lòng, một lớp như lớp mẫu giáo lớn bây giờ. Thế là tôi không còn chơi đùa với mấy đứa nhỏ trạc tuổi, nghe mệ già móm mém, gầy sắt lại với lớp da nhão, đùn vô vàn nếp gấp kể chuyện ngày xưa. Bà mệ già cũng mặc màu nâu hoặc đen. Mọi người ra đồng hết rồi, chỉ còn lũ trẻ với các cụ già trông nhà. Bà mệ già, lũ bạn kia là những người láng giềng của mẹ. Từ nâu và đen ở nhà mình, tầm mắt tôi mở rộng ra sân đất bên kia rặng tre, cũng gặp nâu và đen. Rồi học vỡ lòng, lại gặp màu áo đen của các tu nữ đeo thánh giá trước ngực.
Nhà tôi không xa trường lắm, nên đã có thể đi bộ một mình về nhà hoặc đến lớp.
Sau những giờ hát hò, tập đếm số bằng bó thẻ tre, tôi lại được nghe giảng giáo lí Đạo Chúa, cũng ê a đọc kinh, tay làm dấu thánh, theo sự hướng dẫn của các tu nữ.
Thuở đó, các tu nữ có một chiếc yếm mang trước ngực, bên ngoài lần áo đen. Chiếc yếm trắng nổi bật trên áo đen, như vầng trăng còn khuyết, chưa tròn vành vạnh, hoặc tròn rồi nhưng hao hụt đi. Trăng còn non hay trăng đã già, tôi không rõ. Cây thập giá treo trên vầng trăng đó.
Tôi còn nhớ các tu nữ rất nghiêm khắc với chiếc roi mây. Tôi hát hò, chơi đùa với chúng bạn dưới vầng trăng hao khuyết, cả chiếc roi mây, và cũng cùng với màu đen.
Tôi không muốn nói ấu thơ của tôi chỉ là màu đất, màu đêm, dẫu suốt đời tôi yêu lúa, yêu trăng. Sau này tôi mới nghiệm ra, đất nẩy mầm xanh, còn vầng trăng ấy sáng lên cái chết tử hình của Chúa. Sự sống và cái chết để sống (?).
Rồi như em biết đó, tôi không biết nhờ cơ may nào, mẹ cùng tôi được vào Miền Tây Nam Bộ sau khi tôi học chưa hết lớp vỡ lòng ở Quảng Trị. Tôi đã học lớp đầu của bậc tiểu học ở một huyện lị thưa vắng dân cư tận sông Hậu, rồi sau đó lên Sài Gòn. Tôi bỗng dưng trở thành chú bé nói rặt giọng Nam. Lần đầu tiên tôi biết đến màu vàng nghệ của tấm áo tu sĩ phái tiểu thừa khất thực.
Sau hai, ba năm gì đó về lại quê nhà giữa lòng Miền Trung, tôi nhạt dần giọng Nam, quên bẵng màu đắp y vàng. Cho đến một hôm, trên đường đến lớp, ngang qua đình làng, tôi thấy lại màu vàng ấy, nghe lại giọng Nam ấy. Các hành giả tiểu thừa đang nghỉ trưa sau bữa cơm độc nhất trong ngày đựng ở bình bát. Tôi lấm lét lẻn vào đình vì sợ ông từ. Những hành giả ngồi xếp bằng lim dim mắt khiến tôi liên tưởng đến tượng Phật trên chùa làng. Hình ảnh Phật với các hành giả này không khác gì nhau cả. Điều đó khiến tôi vừa thấy gần gũi vừa sờ sợ, nhưng rồi cũng mon men đến gần các hành giả áo vàng, hầu như ở Quảng Trị không có, chỉ các tu sĩ áo lam hoặc nâu.
- Tới đây, bước lại đây, cháu ơi!
- Dạ - tôi vừa dạ vừa nghe trong kí ức mình vang lên chất giọng Nam Bộ một thuở nào đã ngấm vào nếp tư duy, vào cả tiềm thức của tôi, đã ngọt trong thanh quản và đầu lưỡi tôi.
- Cháu ở xóm nào trong làng này?
- Dạ, ở xóm hạ.
Rồi qua dăm câu làm quen, tôi hầu như đã quá thân với các hành giả ấy, những khất sĩ từ Nam Bộ lặn lội ra đây.
- Tu làm chi rứa, thưa sư? Để lên Thiên Đàng?
- Để thành Phật, để lên cõi Niết Bàn.
- Niết Bàn là Thiên Đàng hả sư? Có giống Bồng Lai không sư? Sư giảng cho cháu nghe đi.
- Là một đó thôi, nhưng mắt nhìn mỗi tôn giáo mỗi khác. Đó là nơi không có sự chết cũng như không có sự sinh nữa, không trẻ, không già nữa, không buồn, không khổ, không bệnh nữa.
- Không chiến tranh, bắn nhau nữa, thưa sư?
- Ừ. Không cả chiến tranh.
- Tu hành khổ lắm. Mạ nói người tu xem khổ là sướng.
- Khổ để sau này sướng, cháu ơi! ''Tu là cỗi phúc''.
Tôi nhớ đến mẹ và dì, nhớ bà mệ già, nhớ các tu nữ. Đấy là những người cũng như sư, đều mơ ước hạnh phúc. Hạnh phúc trong cõi người ta và hạnh phúc ở cảnh giới vô hình. Mẹ ước cha tôi sống lại, mẹ cùng cha sinh con đẻ cháu đông đàn dài lũ, cơm no áo ấm. Dì mơ ước đất nước thôi chia cắt, người dượng tập kết ngoài Bắc trở về bên dì cho đến khi trắng tóc. Nhưng cả mẹ và dì, cũng như bà mệ già, đều mơ ước thêm cõi bồng lai ngoài trần gian này. Các nữ tu sĩ, các hành giả cũng không muốn chết, hoặc chết tạm thời để sống vĩnh hằng ở cõi trên trời. Và mọi người đều có kinh kệ riêng, là ca dao, cổ tích, huyền thoại, là chuông mõ với giọng tụng niệm ê a âm Phạn ngữ, là đàn với thánh ca có tiếng La Tinh.
Cũng thế, tôi, năm mười tám tuổi, mơ mộng đến mức khát vọng về em - Gương Mặt Tình Yêu của tôi, yêu dấu của tôi, hạnh phúc của tôi.
Em còn nhớ không, những câu thơ, những trang văn của tôi ngày đó là kinh kệ, là thần chú gọi em về trong thương nhớ đầy ắp trí tưởng, tâm hồn tôi.
Vượt lên màu nâu, màu đen, lam lũ và nghèo khó, của mẹ, của dì, vượt lên màu đen, màu trắng tu nữ, nghiêm nghị và khắc kỉ, vượt lên cả màu vàng, màu nâu, màu lam của hành giả, thiền sư, chay tịnh và khổ hạnh, là màu lụa hồng áo em, màu trắng học trò của tâm hồn em, tình yêu và trinh bạch.
Tôi không hề đùa chút nào cả, nghe không bé con yêu dấu! Tôi cũng âu lo khi nghĩ ai đó sẽ bảo tôi phạm thượng, nhưng tôi quả thực thành tâm nhớ về em, và em tràn đầy trong tâm hồn tôi như Thượng Đế. Nhưng em không bao giờ có thật! Vậy phải chăng tôi là người mộng mơ đến hoang tưởng? Không. Trong cô đơn và cô độc, như cô bé An-nơ Phơ-răng viết nhật kí, tâm tình với con búp bê Ki-ti, tôi cũng có người yêu với cõi miền tưởng tượng của mình (10). Bấy giờ, mười tám tuổi, tôi đã tôn giáo hóa, thi ca hóa tình yêu đương, khát vọng yêu đương đến thế! Em có nhớ một tác phẩm văn chương cổ điển...
Nhỏ yêu dấu, thuở đó, em cũng thành tâm như tôi. Bây giờ, em có buồn cười cho thời mơ mộng ấy? Nhớ không, bức tranh yêu dấu trong niềm tương tư một thuở, dẫu là bức tranh được vẽ bằng chữ (11)?
5
Nhỏ yêu dấu,
Vậy đó, tôi đã kể tiếp chuyện cho em nghe.
Từ hôm được gặp các hành giả ở đình làng, giữa một ban trưa mùa hè, tôi thốt nhiên được đánh thức chất giọng Nam Bộ. Rồi suốt lớp học hè tôi rặt nói giọng Nam Bộ, nhất là vào những giờ ra chơi. Đó là một trò đùa giữa một làng quê Quảng Trị. Ban đầu là cái nhớ vô thức, sau đó lây lan trong nhóm bạn như một trò vui của chúng nó, còn với tôi vẫn là ôn lại kỉ niệm sông Hậu - Sài Gòn, nhưng dần dần, tôi nào ngờ, với lũ bạn, trò chơi giả giọng đã nhạt, đã chán. Chúng đã phát cáu khi tôi vẫn hồn nhiên thích nói giọng Nam.
- ''Chửi cha không bằng pha tiếng''! Mi phải im cái miệng lại, vặn lưỡi lại, nghe chưa!
Có đứa bực bội vì có thể đã hiểu sai câu tục ngữ đó.
Tôi gân cổ ra cãi:
- Pha tiếng! Tức là không chêm tiếng Tây, hoặc dốt chữ nho mà hay chêm chữ Tàu. Pha tiếng đâu phải pha giọng!
Một thằng bạn thân nhe răng sún:
- Pha tiếng tức là, thay vì mô tê răng rứa, lại đâu kia sao dzậy!
- Dốt! - một đứa khác ra vẻ đàn anh - Rứa sách vở, lời thầy cô giảng đều pha tiếng Nam, tiếng Bắc cả hay răng?
- Hoan hô pha tiếng Nam, Trung, Bắc. Chỉ nện, chỉ ''guánh'' (đánh) thằng mô pha tiếng Tây hay xổ nho.
Nhưng khốn nỗi, đứa thua lí cả bọn lại là thằng to xác. Nhà nó xa lớp hè hơn nhà tôi nhưng cùng đường về. Đứa bé mười tuổi là thằng tôi phải mấy phen nhừ đòn bởi nó. Nó đánh tôi vì cho rằng tôi đùa dai, chơi trội, và có lẽ còn do nó thua lí nữa. Cũng có thể thêm một nguyên nhân khác: Nó không muốn giữa đàn gà bỗng dưng có một con vịt.
Làng quê thương mến của tôi còn có một đặc điểm, hồi nhỏ, tôi cứ nghĩ trên trần gian này có một. Đó là mỗi ''phe'' (xóm) một giọng. Một làng có bốn phe, âm sắc không phe nào giống phe nào. Chỉ cần nghe giọng nói là biết địa chỉ! Lạ vậy đó, dẫu bốn phe đều có chung một đình làng! Nếu không chung một đình làng, hẳn bốn phe sẽ thành bốn quốc gia, bốn dân tộc trong vài trăm năm sau.
Phe này nhại giọng phe kia cũng đã bao lần gây ra ẩu đả. Tất nhiên chỉ giữa bọn con nít với nhau!
Việc tôi ốm đòn bởi một thằng to xác cùng phe, do khoái nói giọng Nam một cách vô thức, hồn nhiên, khiến tôi nhận thức rõ ''đặc điểm'' của làng về sự khác giọng. Sự ghét giọng của nhau làm tôi căm ghét sự khác đó, vì chưa hiểu tính đa dạng.
Đúng là thằng bạn to xác thua lí ngày ấy, bằng cú đấm trời giáng, cú đá nẻ đất của nó, vô hình trung đã dạy cho tôi lòng căm giận óc cục bộ, địa phương, kì thị dân tộc. Sự khác biệt dân tộc trước hết là khác biệt ngôn ngữ, và sự khác biệt ngôn ngữ khởi nguyên từ khác biệt địa bàn cư trú. Biết đâu, khác biệt địa bàn cư trú cũng là nguyên nhân rất xa, hàng vạn năm, dẫn đến khác biệt màu da, chủng tộc! Thằng bạn ''kẻ thù'' ngày thơ bé ấy đã thành ''thầy'' của tôi như vậy. Thằng bạn ấy, sau này, lại cưới một cô gái Nam Bộ và nói giọng Nam đặc sệt. Có lẽ, nó cũng học được điều gì từ cú đấm, cú đá tự vệ của thằng ôn con là tôi! Để học được cách tự vệ, tôi đã đấm đá bầm dập hàng chục cây chuối trong vườn mẹ! Tôi nào muốn đánh nhau, nhưng để khỏi đánh nhau nữa, cũng chẳng muốn lạy lục ''kẻ thù'', không còn cách nào khác là phải rèn luyện cú đấm, cú đá như thế. Thật buồn cười chuyện con nít! Buồn cười đến nghẹn ngào!
Em còn nhớ không, năm tôi mười tám tuổi, em đã cùng tôi về thăm lại kỉ niệm đắng chát ấy, lúc vị đắng chát nhờ biết suy ngẫm và thời gian đã trở nên ngọt bùi. , nói thế cũng là cường điệu, phóng đại quá. Đắng chát tuổi thơ mau trở nên ngọt bùi lắm, đôi khi vết bầm ''guánh'' nhau chưa bớt tím, đã chia nhau chiếc kẹo vừng ngọt bùi. Không. Năm mười tám tuổi, ta đã giúp nhau ôn lại bài học tuổi thơ về ghét giọng, ghét miền, và cả bài học về tính đa dạng, phong phú mà thống nhất.
Nhỏ thân yêu, bé con yêu dấu, em còn nhớ không?
Vậy đó, tôi đã kể chuyện cho em nghe. Tôi lại lắm lời tâm tình với em bằng những dòng vĩ thanh của mỗi chương thế này!
6
Sáng hôm đó, sau khi từ quận Ba về lại Lá Xanh, Cúc Tần nhận được xấp bản thảo gói kín trong giấy báo từ tay Hòa Bình. Cô tiếc không được gặp Niên. Vừa làm bếp, Cúc Tần vừa đọc bức thư Niên hí hoáy viết tay, rồi đọc luôn cả những trang đầu cuốn tiểu thuyết còn ở dạng đánh máy thô sơ. Cúc Tần hơi ngờ ngợ. Đọc hết chương đầu, cô sực nhớ hình như cô đã được đọc những nhân vật này, tình tiết này ở đâu đó. Cô đọc lướt, đọc nhảy cóc các chương khác. Đúng rồi. Không thể sai được. Đây chính là cuốn tiểu thuyết tự truyện của anh giáo viên dạy trường của cô ruột cô, tận Tiền Giang. Đúng là cách kết cấu này: cứ mỗi chương tự sự lại có đôi ba trang trữ tình như nằm ngoài kết cấu chung, dạng của một bức thư. Mười hai chương cộng với mười hai bức thư như vậy. Bức thư như lời trữ tình ngoại đề dài, có đôi chi tiết tự sự bổ sung trong đó.
Ăn cơm xong, Cúc Tần lại đọc trong khi Hòa Bình rửa chén bát. Đến trường, Cúc Tần lại mang theo để đọc trong những phút đổi tiết ở văn phòng. Chiều lại, đón Cảo Thơm, về nhà, cô tắm rửa, ăn cơm, rồi lại đọc. Chưa bao giờ cô đọc vội vã, bỏ băng như vậy.
Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là cuốn tiểu thuyết ở dạng viết tay cô đã đọc năm ấy. Nhưng cũng không phải đúng y như cũ. Rõ là có bổ sung, sửa chữa và lược bớt. Cô run lên với những bức thư cuối mỗi chương, Niên gọi là các vĩ thanh. Đó là những lời thầm thì tâm tình, rất ít các chi tiết tự sự. Cốt truyện và tự sự, với ngôi thứ ba, đã ở các chương trong kết cấu chính của tiểu thuyết. Cô cứ ngỡ, với các bức thư ngoại đề, vĩ thanh này, ở ngôi thứ nhất của đại từ, Niên chỉ viết cho riêng cô. Đấy là ngỡ thế, Cúc Tần vẫn ý thức rõ Niên viết cho một nhỏ thân yêu nào, cô bé yêu dấu nào Niên tưởng tượng ra. Cô vừa sung sướng vừa xấu hổ (Tâm trạng đó có lẽ đậm nỗi tự ái!).
Cúc Tần đọc các bức thư xen kẽ ấy trước. Cô chẳng cần tự sự lạnh lùng của người kể chuyện. Cô cần lời trữ tình trực tiếp, mỗi chữ như gõ vào trái tim cô. Tự ái đã được chất ngọt mê hoặc!
Có lẽ nào những bước chân tình cờ lại đưa đẩy để cô gặp được tác giả cô chưa hề gặp mặt ấy. Và lạ lùng thay, đã gặp, đã quen, đã yêu nhau vẫn không ngờ mười mấy năm trước đã có cơ duyên cùng nhau, từ một xấp bản thảo!
Trong mấy ngày, nhất là các buổi sáng, Cúc Tần muốn bấm số gọi Niên, nhưng cô lại ngần ngại. Cô ngần ngại vì sợ Niên không phải là anh giáo viên ngày ấy tít tận Tiền Giang. Có thể Niên viết lại câu chuyện anh giáo viên ấy đã viết. Cô sợ sự thật. Cô cũng sợ Niên biết, ngày ấy, cô yêu tác giả xấp bản thảo bằng trái tim dại dột nhất, mê cuồng nhất của cô bé mười ba tuổi. Cúc Tần đỏ mặt khi nghĩ đến điều đó. Mười ba tuổi, chứ không phải mười bảy tuổi, như cô đã nói với Niên! Năm bảy chín ấy, con bé mười ba tuổi đã yêu đến bật khóc một người chưa hề gặp mặt!
Cúc Tần cứ tần ngần trước máy điện thoại. Cô vừa ngóng Niên, vừa ngại Niên đến.
Cúc Tần nhớ, năm bảy chín ấy, cô Lê Thị Sông Phố của cô, hiệu trưởng một trường trung học phổ thông ở Mỹ Tho lên Sài Gòn ăn tết với gia đình cô, đã mang theo một xấp bản thảo. Cô Sông Phố đưa cho ba cô và nói, giọng còn bực dọc:
- Anh thử đọc trong tuần lễ nghỉ tết nguyên đán này xem. Của một anh giáo viên vừa ra trường được một năm đấy!
Ba cầm, thấy những dòng chữ viết tay, ngẩng mặt lên hỏi:
- Tác giả tên gì vậy?
Cô Sông Phố lắc đầu, vừa thông cảm vừa nghiêm khắc:
- Thôi, đây là chuyện riêng của người ta mà. Dạng như tự truyện, có thể tự thuật mười mươi cũng nên. Lẽ ra, phải tôn trọng kỉ vật riêng tư, nhưng lại do bí thư chi bộ kiêm thư kí công đoàn phát hiện mới rầy rà! Em đọc rồi, chẳng có gì là động thời văn hay ngụy thư cả. Anh tác giả cũng nói anh ta đã'' sáng mắt sáng lòng'' lâu rồi, nhưng vẫn giữ cái gọi là lãng mạn, siêu hình, duy tâm này để kỉ niệm thời trước giải phóng chơi. Chỉ có vậy, nhưng ông bí thư cứ muốn xới việc lên để rút kinh nghiệm trong tổ ngữ văn luôn thể. Ông này vốn là nhà phê bình văn học, thỉnh thoảng có bài phê bình, lý luận đăng báo. Thật tâm ổng cũng tốt thôi, nhưng anh giáo viên không chịu nổi. Anh ta cho vậy là thô bạo, đánh vu hồi quá khứ, là lợi dụng khuyết điểm cá nhân! Còn theo em, cũng nên phê phán để rút kinh nghiệm!
Ba cười ha hả:
- Chuyện gì mà dao to búa lớn thế! Kỉ niệm riêng tư cũng đáng giữ gìn thật, dẫu thế nào đi nữa. Mấy ông nhà thơ, nhạc sĩ tiền chiến đó, cũng ngụy chứ còn gì nữa. Vấn đề là sau bảy lăm, sau ngày giải phóng... Thật ra, thay đổi nhận thức, nhân sinh quan, thế giới quan, có người rất nhanh, như thể đột biến, có người rất chậm, hàng chục năm, có người không thay đổi! Cô cứ để đó, tôi mượn đọc xem. Dẫu sao, cũng ''cùng một lứa bên trời lận đận''! - ba ngẫm nghĩ - Tôi thấy cô ... hơi căng đấy chứ?
Và cô bé Cúc Tần mười ba tuổi len lén đọc. Cô bé say mê nhân vật trong truyện đó, mê cả giọng văn, dẫu ba cô bảo chưa thật hay lắm, nhiều đoạn còn vụng. Cô bé Cúc Tần vẫn thích chất lãng mạn của khát vọng yêu đương! Với thẩm thức của cô hồi đó, đấy là tác phẩm tuyệt vời. Cô bé yêu luôn cả tác giả!
Mùng hai tết, cô Sông Phố về lại Mỹ Tho, Cúc Tần thỏ thẻ xin về, vì cô biết, mùng bốn, có người chú họ lại lên Sài Gòn, cô sẽ theo lên. Thật lòng cô bé Cúc Tần muốn gặp anh giáo viên cô Sông Phố giấu tên ấy. Mùng ba, Cúc Tần theo cô Sông Phố đến nhà tập thể của giáo viên. Qua câu chuyện, cô biết anh giáo viên ấy tên Nguyễn Văn Phần, nhưng rất đáng tiếc, cô không được gặp! Tác giả ấy đã bỏ trường ra đi từ trước tết, hôm hai mươi sáu tháng chạp âm lịch!
Cúc Tần thất vọng trở lại Sài Gòn. Cô không những yêu mến mà còn thương, rất thương anh giáo viên ấy. Anh ấy lớn hơn cô những mười tuổi! Rồi cô bé Cúc Tần buồn quá khi nghe anh ấy chết!
Sau này, cô vẫn nghĩ đấy là mối tình đầu của trái tim cô! Cúc Tần đã đau đớn với những cụm từ: ''Tư tưởng, tình cảm lãng mạn chủ nghĩa'', ''cái nhìn siêu hình về chiến tranh, về nhân phận'', ''truy tìm, khai quật vô thức theo những khái niệm tư biện, bịa đặt, suy đồi, duy tâm''... Những từ ngữ ấy đóng đinh vào trí óc cô một cách khô khốc. Bấy giờ, cô chẳng hiểu gì về những cây đinh sắc nhọn ấy. Cũng chẳng hiểu sao nhân vật của cuốn tiểu thuyết đó vẫn là hình tượng ám ảnh Cúc Tần từ độ ấy, rồi theo tháng năm, khuất chìm trong vô thức.
Cúc Tần phân vân bên máy điện thoại. Cô muốn gọi Niên, nhưng cứ sờ đầu ngón tay lên phím số, lại phân vân. Cô nghĩ phải gọi về Cần Thơ, gặp cô Sông Phố, để hỏi thử cô Sông Phố còn nhớ chăng tác giả Nguyễn Văn Phần với xấp bản thảo. Chắc chắn cô Sông Phố không sao quên được. Cô ruột của Cúc Tần chẳng ân hận đến thẫn thờ khi tác giả ấy bỏ đi đó sao! Một người nữa, Cúc Tần phải gặp, đó là ba của cô. Cách đây mấy hôm cô mới vừa qua quận Ba thăm ông. Trí nhớ của ông không thể không mờ đi theo tuổi tác. Có điều, chắc ông cũng không thể không nhớ về xấp bản thảo ông đã đọc cách đây mười chín năm!
Cúc Tần mỉm cười, trước sau gì cô cũng biết rõ điều cô đang muốn biết. Có lẽ tối nay, Hòa Bình sẽ phải ở nhà một mình, Cúc Tần sẽ qua thăm ba.
Cúc Tần bỗng thấy cô còn quá trẻ con, thật buồn cười. Khi yêu thật lòng, người ta buồn cười lắm nhỉ! Cúc Tần lại thấy, trái tim cô cần phải bình tĩnh lại. Cô đã yên tâm khi thấy đáp số trong lòng bàn tay. Cô cố gắng giữ nét mặt bình thản, hồn nhiên. Chuyện đâu còn có đó. Chẳng cần gì phải cuống lên đến thế!
Cúc Tần bâng khuâng, hi vọng cô sẽ hiểu thêm Niên. Nhưng khi biết từ năm mười ba tuổi, cô đã yêu Niên, Niên có coi thường cô không nhỉ? Có một số điểm trong chuyện này cô đã tránh nói thật với Niên!
Mối tình đầu bâng quơ sao thăm thẳm, thăm thẳm đến mức Cúc Tần cũng không hiểu chính cô! Ngay cả khi kể lại chuyện này, cô không thể không rối lòng, ngường ngượng! Giờ càng rối, càng ngượng vì đã lỡ dối Niên!
7
Nhỏ yêu dấu!
Với những dòng tự sự triển khai theo mạch cốt truyện, tôi là một ai khác kể cho em nghe về chính tôi những năm mới lên đệ thất, đệ lục (lớp sáu, lớp bảy bây giờ). Ngày kể ấy, tôi mười tám tuổi, em đã đọc. Bây giờ, tôi viết lại để cùng em đọc lại rồi đó.
Tuổi nhỏ của tôi đã lớn lên ở một làng thôn trở thành quận lị. Những trận công đồn của quân giải phóng phối hợp với du kích cứ mỗi năm diễn ra đôi bận.
Nửa đêm, có khi khoảng một hai giờ khuya, tiếng súng rền lên đột ngột đã đẩy mọi người xuống hầm trú ẩn. Thời đó, dân làng dồn hết công của vào chiếc hầm, thậm chí hầm trú ẩn còn quan trọng hơn cả nhà ở. Có người còn giở cả gỗ nhà rường, lấy cả những tấm phản dày cả gang tay của đứa bé khoảng mười mấy tuổi để làm hầm.
Như vậy tôi đã kể cho em nghe, mẹ và dì cùng thằng nhỏ là tôi cứ hồi hộp, phập phồng mong ánh hỏa châu thôi lơ lửng sáng, tiếng súng các loại, tiếng lựu đạn, tiếng mìn và tiếng đạn pháo từ hạm đội ngoài biển khơi rót vào thôi nổ. Tiếng đạn pháo rít gió nghe thật rùng rợn. Bao nhiêu nhà cháy vì pháo sáng hạm đội, bao nhiêu người chết, bị thương vì đạn.
Người ta còn xuống hầm bởi một loạt đạn vu vơ hoặc cả vài phút mìn cùng với đạn nổ. Có thể người lính ngụy nào thảng thốt giữa khuya, vì một bóng gà, bóng chim, hay chỉ do ám ảnh khiến không làm chủ được cò súng, có thể là một trận phục kích và phản phục kích trên rú cát.
Những năm tháng tuổi nhỏ kinh hoàng, như em đã biết đó, đã khiến tôi vượt quá ngưỡng của lo sợ. Hầu như ai cũng vậy. Chuyện súng đạn đối với người có súng trong tay, kẻ trong cuộc, dẫu sao cũng bị say thuốc súng, họ quên sợ. Trẻ con, đàn bà, cụ già và những người không hề cầm súng, nỗi sợ có lẽ lớn hơn. Sợ quá, đến mức nào đó rồi cũng quen đi. Sống trong ám ảnh về cái chết, có thể xoáy vào bằng mũi đạn đồng, hay ập xuống bằng quả pháo đại bác, riết rồi cũng quen đi! Hóa ra, bản năng sống là bản năng mãnh liệt nhất, trong chiến tranh, đôi khi thành ra vô nghĩa. Thậm chí, dửng dưng với cả cái chết, thời người ta sống trong nỗi chết.
Tôi có một người bạn cùng tuổi, cùng lớp khá thân. Bạn ấy từ một làng quê thuộc vùng ngày ngụy, đêm cách mạng - vùng ''xôi đậu'' - lên huyện lị tạm cư và học tập. Có vài lần, đèo nhau trên chiếc xe đạp, tôi và bạn ấy về làng vì tiếc một mùa ổi, mùa cam không ai hái, nhất là những tháng chiến tranh khốc liệt nhất, rất ít dân làng cả gan bám trụ. Tôi đã được gặp những anh bộ đội chính quy nói giọng đâu ngoài Miền Bắc xa xôi, những o chú du kích suốt năm, suốt tháng nằm hầm, ăn toàn cây xương rồng, da xanh mét và phù thủng. Họ hát cho nhau, cho các thằng nhóc, con lỏi bọn tôi nghe những bài ca hùng tráng, trữ tình lạc quan. Họ còn ngâm thơ nữa. Thuở đó, tôi chỉ cảm nhận mơ hồ rồi họ sẽ thắng, ít ra là nhờ những bài ca, bài thơ nọ.
Trên đường đạp xe về lại huyện lị, càng gần nhà, càng gặp nhiều hơn các bóng dáng lính địa phương quân, nghĩa quân và cán bộ xây dựng nông thôn, cả biệt chính ngụy. Họ cũng là những thanh niên từ các ngôi làng quanh đây, từ làng của thằng bạn tôi.
Hai bên đều anh em, bà con ruột thịt cả đấy!
Nhỏ thân yêu, em còn nhớ không, năm mười tám tuổi, tôi đã kể, và vừa rồi với những dòng tự sự, tôi lại kể một lần nữa, cũng chia sẻ với em bao cảm xúc, suy nghĩ của tôi trên con đường đất đỏ, ngập bùn mùa đông, mù mịt bụi mùa hè, khi cùng thằng bạn về nhà. Lúc đó, tôi đã khờ khạo liên tưởng đến những cuộc chơi ném đất cày, bắn ống bóc (12) bằng hột cây bời lời của chính chúng tôi.
Bọn nhóc chúng tôi cũng chia phe để chiến đấu với nhau. Cũng hăng máu, cũng bươu đầu sứt trán, cũng tấn công, cũng phục kích, rồi cũng cùng nhau đi moi khoai sống ở các vồng đất phủ xanh những lá để cùng nhau nhai rau ráu. Cũng thù nhau đến tím ruột bầm gan. Cũng ngộ nghĩnh là chiến tranh trên đất nước thuở đó còn phản ánh vào trò chơi chế súng đạn của chúng tôi. Tôi đã ra bờ kênh moi đất sét, đem về vo tròn, rồi cắt một đoạn ngắn dây thừng được bện bằng xơ dừa cắm vào viên đất tròn vo ấy. Nửa đêm, cũng thức dậy, đốt đoạn thừng rồi dùng ná cao su bắn lên trời làm đạn lửa. Đạn đất sét có xơ dừa cũng xẹt một đường lửa đỏ ngang trời!
Thuở ấy tôi làm sao biết ai chính nghĩa, ai phi nghĩa, ai ngụy, ai cách mạng! Tôi chỉ thấy chiến tranh là một trò chơi nguy hiểm quá dại dột của người lớn.
Thêm một vài tuổi nữa, tôi lại ngẫm đến bản năng thích chém giết, bè nhóm, cát cứ của con người, như lịch sử đã diễn ra thời Trịnh - Nguyễn! Niềm khát vọng hòa bình của tôi nẩy sinh từ cái nhìn khá siêu hình về cuộc chiến.
Nhỏ thân yêu, sau này, tôi còn biết nhiều trí thức nổi tiếng cũng có cái nhìn về chiến tranh như vậy. Một vài nhà thơ ở Miền Bắc cũng mệt mỏi, buồn rầu không khác hơn. Tôi biết có bài thơ đã xây dựng tứ trên vành khăn tang trắng: đồng nhất hố bom tròn với vành khăn tang tròn và vòng tròn của con số không! Thủ phạm, nạn nhân, và hư vô! Tất thảy đều hư vô!
Chiến tranh đâu phải là trò chơi của định mệnh (mà định mệnh chính là bản năng sinh vật của con người!?), phải không, nhỏ yêu dấu!
8
Nhỏ thân yêu,
Năm mười tám tuổi của tôi, em còn nhớ không, ta cũng đã băn khoăn cùng nhau thân phận làm người.
Có rất nhiều điều bây giờ đã trở nên quá cổ bởi nghìn xưa đã cũ. Tôi còn nhớ một triết gia nào đã ném ra một câu hỏi về sự hiện hữu của mỗi nhân phận: Mỗi con người ra đời đâu được hỏi ý kiến về sự ra đời của chính nó! Sự hiện hữu của mỗi nhân phận là sự áp đặt của cha mẹ và quy luật tạo hóa. Một triết gia khác lại đặt ngược vấn đề của nhân phận: Tất cả mọi vấn đề triết học đều vô nghĩa nếu không giải quyết được vấn đề tự tử. Câu hỏi to lớn nhất, trầm trọng nhất, theo ông ấy, là có nên sống hay không sống nữa. ''Sống hay không sống, vấn đề là ở đó'', từ băn khoăn của Hăm-lét (13) trở thành băn khoăn triết học. Con người không ai chọn lựa để được sinh ra hay không, nhưng đều có thể ngẫm xem ''đời đáng chán hay không đáng chán'' (14), đời đáng sống hay không đáng sống, để chọn lựa tự tử hay không.
Nhỏ yêu dấu, thật ra mỗi chúng ta đều không chọn lựa gì cả, kể cả những vấn đề thiêng liêng nhất, lớn lao nhất, máu thịt nhất. Chúng ta đều bị áp đặt, bị cưỡng bức. Chúng ta đều lỡ trước sự đã rồi. Nghìn xưa đều vậy, nghìn sau đều thế. Mỗi người không thể chọn cho mình một màu da, chủng người, tộc người. Không ai, xưa đến sau, chọn cho mình mẹ cha, quê quán, ngày sinh tháng đẻ. Không ai chọn lựa được Tổ Quốc. Nói cách khác, tại sao tôi mang dòng máu này, sinh ra trong gia đình này, thời đại này, trên mảnh đất này, với trí tuệ này, dáng dấp hình hài này, tâm hồn này? Người ta chỉ có thể chọn lựa quốc tịch, lí tưởng, lẽ sống, tôn giáo hay không tôn giáo, ngôn ngữ này hay ngôn ngữ kia, và nghề nghiệp nào đó, người vợ, người chồng nào đó thôi sao? Ta là ai với năng lực gì, phẩm chất gì, vô thức gì từ bẩm sinh? Tại sao ăn, tại sao thở, tại sao phải truyền giống?
Nhỏ thân yêu, sẽ rất lẩm cẩm hoặc sẽ rất vô tri, nếu chỉ biết băn khoăn hay không hề băn khoăn. Vấn đề là băn khoăn như thế nào và giải thích thế nào. Có thể trả lời bằng các khái niệm của các tôn giáo: luân hồi, nghiệp chướng, tội tổ tông truyền, quy luật nhân quả, ân sủng thượng đế, âm dương ngũ hành, các thứ. Cũng có thể trả lời bằng quy luật vật chất, kinh tế, vân vân.
Những thắc mắc nghìn xưa! Nghìn xưa đã trả lời, nay lại tìm cách trả lời.
Quả thật trước những câu hỏi thuộc về quy luật tự nhiên như màu da, dòng máu, và thuộc về ngẫu nhiên, như Tổ Quốc, quê quán, ngày sinh, có lẽ thái độ khôn ngoan nhất là mỉm cười. Mỉm cười, sau khi thấu suốt hết mọi lẽ!
Tại sao ta yêu Tổ Quốc, quê hương? Tại sao ta quý màu da vàng, dòng máu Việt Nam? Tại sao ta nhớ ngày sinh? Tại sao ta kính yêu cha mẹ? Tại sao ta họ Lê chứ không phải họ Lí? Câu trả lời dung dị nhất lại là câu trả lời đúng nhất xưa nay.
Con người còn có thể chọn lựa cho mình những gì có thể chọn lựa, trên cơ sở nhận thức đâu là chân lí, đâu là sự thật, đâu là khoa học đích thực, đâu là Cái Đẹp...
Nghìn vạn năm ở trong ta, ta là một phân số của tồn tại, phát triển, thuộc về nghìn vạn năm sau, theo quy luật vật chất. Tinh thần cũng là một dạng vật chất. Tiến hóa và tồn tại mãi.
Chủ nghĩa nhân đạo cao cả nhất và sâu sắc nhất là để mỗi người được tự do chọn lựa những gì có thể chọn lựa, nhân danh độc lập, tự do cho mỗi người!
Nhỏ thân yêu,
Liệu tôi và em đã sáng suốt khi chọn lựa? đã đủ bản lĩnh để chọn lựa? Những vấn nạn không thể không đặt ra. Có điều, nguy cơ của việc đặt ra những vấn nạn ấy là sẽ xô đẩy chúng ta vào hố thẳm của chủ nghĩa hư vô. Đối mặt với Hư Vô rợn ngợp, chúng ta sẽ nổi loạn, sự nổi loạn tư tưởng trước Phi Lí của mọi tồn tại, mọi thực thể. Hệ quả kế đến là chúng ta sẽ mỉm cười trước Tất Yếu của Tự Nhiên để có cảm giác Tự Do, hoặc sẽ sa lầy vào trụy lạc vật chất và suy đồi tinh thần. Hệ quả khác, sẽ nhận ra mọi nền văn hóa chỉ là trò bịa đặt có quy ước, mọi giá trị cũng là trò chơi có luật lệ, kể cả tình yêu Tổ Quốc, Dân Tộc, Nhân Loại, nên sá gì những cuộc đấu tranh giai cấp, bảo vệ độc lập, tự do, nhân phẩm. Thật kinh khủng!
Những vấn nạn ấy thật ra khi nêu lên là đã có thể tìm thấy các trả lời đúng đắn, nhưng vẫn có nguy cơ chúng sẽ là loại thuốc phiện kiểu khác, chích vào ý chí của chúng ta.
Cuối cùng, liệu chúng ta phải tìm cách cảm nhận tính hợp lí, có ý nghĩa trong cái phi lí, cái vô nghĩa, như vấn đề cách bức giai cấp, giàu nghèo, tín ngưỡng, dân tộc, hoặc nỗ lực xóa bỏ tính phi lí, vô nghĩa ấy? Tất yếu xã hội có phải đều là áp đặt phi lí?
Nhỏ yêu dấu, có phải tất cả đều phi lí và vô nghĩa?
Thôi thì cứ tìm hiểu ''Ta là Ai?'' để sống như thế nào và ''Vì Ai?'' một cách hữu hiệu, tích cực? Tích cực như thế có là tích cực?
Vấn đề đã quá cổ, phải không?
Vấn đề đã gây nên sự khắc khoải của hàng nghìn năm, gây nên dịch ''buồn nôn'' cho mấy thế hệ. Phi lí, vô nghĩa, hư vô, cô đơn và - tôi muốn nhấn mạnh, bổ sung điều đã nói đâu đó với em - tính chất độc ác trong sự sát sanh thực vật, động vật của quá trình sống, quả là gây ''buồn nôn'' thật nếu thiếu ngẫm nghĩ.
Tất yếu tự nhiên là những gì cần phải từng bước chiến thắng. Nhân quyền (mọi quyền con người trong hiến pháp) là cái chiến thắng các sự áp đặt, cưỡng bức được gọi là tất yếu xã hội. Và nhân phận không hề hư vô, nếu ta nhớ lại: Vạn nghìn năm ở trong ta và ta là một phân số của tồn tại, phát triển, tiến hóa theo quy luật của vật chất, thuộc về vĩnh hằng của vật chất. Sống không phải là bi kịch của Xi-díp (15), biển đông xe cát như dã tràng. Mọi nhân phận đều là sự tiếp nối và bất tử.
Vấn đề đã quá cổ, phải không, nhỏ yêu dấu? Và tôi đã lặp lại quá nhiều lần đến nhàm chán!
9
Nhỏ yêu dấu,
Tôi đã kể cho em, mong em chia sẻ cùng tôi bi kịch sự khẳng định chân thành, mạnh mẽ một lẽ sống, năm tôi mười tám, mười chín tuổi.
Để khẳng định sự hiện hữu, từ tấm bé tôi đã hết mình học tập và luyện cú đấm tự vệ, dẫu mãi đến mười tám tuổi, đến bây giờ, cú đấm chả ra gì, còn chữ nghĩa vẫn ngo ngoe!
Tôi vẫn còn nhớ một chiều hè nào, một cụ già trong nhóm người Chăm, quê ở đâu xa tít trong Bình Định, Ninh Thuận, lặn lội ra huyện lị nhỏ bé tận Quảng Trị để bán những vòng đeo tay có lục lạc reo leng keng, với các nét khắc chạm tinh tế, đựng trong các gùi mây cực đẹp, đã nói với chú bé mười tuổi là tôi hồi ấy:
- Cháu sau này làm nghề nghiệp gì, phải tinh xảo nghề nghiệp ấy, nghen cháu.
Tôi mỉm cười bối rối:
- Dạ.
- Để sống được, phải luyện lấy một tài năng! Tài khoa học, tài thơ văn, tài sửa xe, tài chế tạo, tài cày ruộng... Tài năng, phải có tài hơn người! Cháu hiểu không, mồ côi, khổ lắm! Và dù không mồ côi, cũng phải vậy. Người phải có ý thức vượt lên người khác bằng tài năng, chứ không phải bằng trò ma mảnh, mới thật người, nghen cháu.
Ông cụ tặng tôi chiếc vòng đồng có lục lạc kêu leng keng nghe vui tai. Tôi đã mang nó suốt cả thời mới lên bậc trung học đệ nhất cấp, mặc chúng bạn hay chế giễu, đó là đồ trang sức của đàn bà, con nít và của chó mèo. Tiếng lục lạc ấy, với tôi hồi đó, là sự nhắc nhở thường xuyên về cụ già Chăm cùng lời bảo ban của cụ.
Sau này, năm mười tám tuổi, tôi đã kể em nghe. Em còn nhớ không?
Nhỏ yêu dấu,
Tôi đã thành thật bảo rằng tôi đến với cuộc đời, với mọi người từ mái nhà tranh của mẹ và dì tôi, trước hết, bằng ý thức muốn khẳng định cái tôi, khẳng định sự hiện hữu của chính mình. Thuở đó, em chẳng bảo tôi cá nhân chủ nghĩa là gì. Không! Không hẳn là vậy...
Chả hiểu tôi có bi quan về con người không, khi nghĩ rằng không có ai trên đời này suốt đời vị tha, quên mình. Dẫu vẫn có những khoảnh khắc hầu như vị tha, quên mình thật, nhờ sự giáo hóa và biết tự giáo hóa, nhưng động cơ ngấm ngầm, thường trực vẫn là vị kỉ, vì mình. Thánh hiền vẫn lưu danh đó thôi, trừ các vua Hùng, Thánh Gióng, Lão Tử. Lưu danh cũng đã vị kỉ rồi! Thực chất mọi cuộc đời, mọi hành vi vị tha, vì đời cũng là vị kỉ. Vì lợi, đấy là khuynh hướng của đa số tầm thường. Vì danh, đấy là khuynh hướng bình thường. Nếu nâng cấp, có thể nói, đấy là bình thường và phi thường.
Tôi chỉ dám khát vọng sẽ khẳng định được chính mình dẫu cho như thế là thế nào đi nữa. Phải dám sống vì mọi người, còn bản thân được một chút danh thơm, ấy là hạnh phúc cao quý của đời người. Đúng vậy. Hạnh phúc cao quý nhất của đời người là có sự nghiệp không duy lợi mà duy danh cho mình.
Thú nhận điều đó không thể không gây cho bản thân cảm giác xấu hổ, vì chúng ta chỉ kính trọng những ai tuyệt đối vị tha.
Nhỏ yêu dấu,
Em đã nể nang tôi để thêm hai tính từ đằng sau cụm từ ''chủ nghĩa cá nhân'': vị tha, cao cả.
Có gì khác nhau không giữa chủ nghĩa tập thể không triệt tiêu cái riêng, chung và riêng hài hòa, với cái gọi là chủ nghĩa cá nhân cao cả? Tất nhiên có khác trong phương pháp làm việc, trong cấp độ lợi ích? Làm việc tập thể, đặt lợi ích tập thể trên lợi ích cá nhân. Đúng. Nhưng không thể có danh, nếu không đặt lợi ích theo thứ tự các cấp độ như thế, dẫu động cơ là chủ nghĩa cá nhân cao cả. Và chỉ vậy thôi, sẽ sa vào chủ nghĩa phường hội, bè nhóm. Thứ tự các cấp độ muôn thuở vẫn là: nhân loại, dân tộc, gia đình, cá nhân. Và phấn đấu đạt được tính thống nhất của các cấp độ, dẫu phân cấp cách khác: xã hội, tập thể, cá thể.
Nhỏ thân yêu,
Như thế, lẽ sống của tôi có đáng xấu hổ lắm không? Có phải thành thật thú nhận điều này là đã trâng tráo? Nên ảo tưởng nữa chăng? Lừa mình dối người một cách chân thành nữa chăng? Tất nhiên, lịch sử có nhiều giai đoạn buộc nhiều người tự nguyện quên mình, làm chiến sĩ vô danh. Nhưng lịch sử đâu phải bao giờ cũng chỉ là chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc, quê hương, gia đình!
Nhỏ yêu dấu,
Nhưng cứ chăm chăm vào chút danh thơm sẽ mệt nhọc lắm, hoặc háo danh. Cứ miệt mài làm việc hết mình cho mọi người, danh thơm sẽ đến cùng ta. Phải đóng góp cho bằng được chút gì mới mẻ, có tính sáng tạo cho đời, danh thơm sẽ đến cùng ta.
Khi nói trắng ra vậy, có còn thơm danh không nhỉ!
Nhỏ yêu dấu,
Em đã khinh tôi lúc tôi chân thành như vậy, thuở đó, và đã góp ý cho tôi, thuở đó, em còn nhớ không?
Vòng đồng có lục lạc tôi đã đánh rơi mất trong thời chiến tranh, nhưng lời bảo ban của cụ già Chăm tôi không bao giờ quên. Thay tiếng lục lạc, tôi đã có nhịp đập của trái tim, thầm thì, khỏe khoắn, sâu lắng trong lồng ngực mình. Sau này, lúc đã lớn lên, tôi vẫn không có dịp tìm thăm cụ già Chăm ấy, và chắc bây giờ cũng không còn có dịp vì e rằng cụ đã mất. Nhưng gương mặt hiền hậu, dáng người gầy guộc của cụ không thể mất trong tôi.
Nhỏ yêu dấu, thế là tôi lại lặp lại một điều đã viết: Tôi đã đến với chủ-nghĩa-tập-thể-không-triệt-tiêu-cái-riêng thế nào.
Gắng duy lợi cho mọi người để được chút duy danh cho mình!
10
Em còn nhớ không, quê hương của tôi ngày ấy tôi đã miêu tả để em hình dung. Cát, cát trắng. Đồng, đồng xanh. Giữa hai phía đồng xanh, cát trắng là xóm làng, chợ búa. Đấy là một làng quê bình thường ở Quảng Trị.
Rất nhiều người đã định nghĩa về Quê Hương. Đó là nơi đã ban cho con người thứ tình cảm sâu thẳm nhất, do vậy mọi định nghĩa đều đã đạt đến độ sâu sắc tương đương, cho dù bằng câu nói đơn sơ, hồn nhiên thôi.
Nếu đồng nhất quê hương với quê cha đất tổ - tộc quán, nơi dòng họ sống lâu đời và có nhà thờ họ tộc - mấy ai chả có một quê hương với nghĩa ấy. Quê cha đất tổ không xa nơi tôi sống thời tuổi nhỏ, nhưng không thể về thăm thường xuyên, vì chiến tranh, công việc, nên chẳng có bao nhiêu kỉ niệm!
Mỗi người đều có nhiều quê hương: quê cha, quê mẹ, quê sinh, quê ở và có thể kể cả quê vợ nữa. Vậy quê nào mới đích thực là quê hương của bản thân mình, nhân phận mình? , tôi còn quên một quê nữa, đấy là nơi đã cho mình giọng nói, dù tính thời gian ở chẳng nhiều nhặn gì.
Tôi đã tâm tình cùng em về khoảnh khắc trao duyên giữa cha và mẹ, giờ phút trăng mật của hai người, nơi vang tiếng khóc đầu tiên của mỗi nhân phận. Ba yếu tố ban đầu tạo nên mỗi sinh mệnh cũng là ba quê hương nữa đấy.
(Tôi cố ý dùng chữ trăng mật, với ý thức rõ ràng rằng mọi khoảnh khắc âm dương gặp nhau để tạo nên một mầm sống con người đều tinh khôi như lần trăng mật).
Nhưng, ngẫm lại các loại quê hương ấy của một đời người, quê hương nào đích thực là quê hương nhất? Có người không biết mình có quê hương nào cả, chỉ biết mỗi một loại quê hương là quê ở. Có thể những người ấy cố tình không biết, hoặc thành tâm không biết thật.
Cũng có nhiều loại quê hương tôi hoàn toàn không biết thật đấy.
Nhiều đêm, nhỏ thân yêu, tôi tự lục vấn trong mình, tận đáy trái tim, bản sắc vùng quê nào đậm đà, bền lâu trong ấy nhất? Có thể chỉ là nơi cho tôi kỉ niệm sâu sắc nhất, lắng đọng nhất chăng? Có thể là nơi tuổi nhỏ, tuổi mới lớn, tuổi thanh niên tôi sống? Chất Huế, chất Sông Hậu, chất Sài Gòn, chất Quảng Trị, chất Quảng Nam, chất Lâm Đồng... Chất nào nhỉ? Có lẽ chất Tổ Quốc Việt Nam là đúng nhất!
Em thân yêu, nhưng vẫn trội lên một chất Quê Hương...
Em hãy đọc vào trái tim tôi để tìm thấy giúp tôi Quê Hương đích thực của tôi. Tôi biết Quê Hương ấy chỉ có thể tìm thấy trên Tổ Quốc Việt Nam này, dẫu tôi chưa hề là kẻ bài ngoại cực đoan, về tư tưởng, văn hóa, và cũng vì tôi chưa hề có một giây ở nước ngoài (Tôi vẫn biết có người nhiều năm sống ở nước ngoài, họ vẫn mang Quê Hương theo trái tim họ).
Quê Hương, với nội hàm như vậy, em thân yêu, ta làm sao thù ghét được. Thù ghét Quê Hương là thù ghét chính phần sâu thẳm nhất của mình.
Như thế, tôi e rằng tôi sẽ sa vào ước lệ mất, nếu bảo Quê Hương tôi là làng quê ở Quảng Trị, cát trắng và đồng xanh. Làng quê ấy đã sinh ra một đứa con phản phúc chăng? Không. Chẳng bao giờ tôi muốn vậy. Tôi không bao giờ là vậy.
Em thân yêu, có khi ước lệ lại đúng.
Em hãy đọc vào trái tim tôi để tìm thấy giúp tôi Quê Hương đích thực của tôi. Tôi cũng có ý định cùng em thử đùa chơi: tuyển chọn một tập thơ của những người có chung một Quê Hương được hiểu với nghĩa đó. Như vậy ắt không còn cục bộ, địa phương chủ nghĩa thô thiển nữa chăng?
Quê Hương, ấy là phần thâm sâu nhất. Ai quy định được, ai tự chọn lựa được chăng chất Quê Hương ấy?
11
Nhỏ yêu dấu,
Bé Con thân yêu,
Có lẽ em sẽ buồn cười với cách gọi đầy nuông chiều, cưng quý của một kẻ thích sự nũng nịu, nhõng nhẽo của người yêu. Không, chưa hẳn vậy. Đó chỉ là cách gọi phổ biến của những người yêu nhau. Tôi còn biết có nhiều bạn tình gọi bạn tình: con mèo yêu dấu, con búp bê xinh đẹp, con chó ốm, con cá ươn thân yêu, nỗi buồn của tôi, bài ca thương nhớ!...
Năm tôi mười tám tuổi, Gương Mặt Tình Yêu vẫn ngời hào quang từ vành nón mười sáu trăng tròn, sáng lên vừa kiêu hãnh, hồn nhiên vừa e ấp, dịu dàng trong tôi, với áo lụa hồng đơn sơ ở nhà và áo trắng học trò đến lớp. Em không hề nũng nịu, nhõng nhẽo bao giờ!
Điều đáng tiếc nhất là em chưa bao giờ có thật!
Vậy em từ đâu đến trong tôi, năm ấy?
Em biết đó, tôi luôn luôn truy tìm Vô Thức để cắt nghĩa hiện tại, tương lai của bản thân. Chính vô thức cũng là một vị thần số mệnh của mỗi người. Tôi đã khờ dại ''mê tín'' như vậy.
Có một bài ca dao tôi nhớ nằm lòng:
thương em từ thuở nằm nôi
đến khi em khóc anh đôi (quẳng) cho cục đường
bây giờ em nỏ (chẳng) muốn thương
một, hai, ba, bốn, trả cục đường lui cho anh!
Đấy là cách nói cường điệu của thơ ca? Cũng có thể ý niệm về tình yêu đôi lứa nẩy sinh ở con người nói chung rất sớm?
Quả thật, từ thuở sơ sinh, có thể nói mọi đứa trẻ đã tiêm nhiễm các bài ru em (con) đẫm tính trữ tình yêu đương. Bố, mẹ, cô, dì đã đưa nôi bằng bao câu hát huê tình. Nỗi niềm về tình yêu đương của họ đã thể hiện với một tỉ lệ khá nhiều trong các bài hát ru như thế. Sự thật là các bài ru em (con) thuần hát về thiếu nhi rất ít. Cộng với hiện tượng đó là bao bài tình ca từ đài thu thanh, từ máy băng nhạc.
Đúng là xuất phát từ thực trạng ấy và xuất phát từ khái niệm về sự hình thành vô thức, mọi người được chứng minh là mỗi người vẽ vời ra một gương mặt tình yêu cho riêng mình.
Có những tri thức, người ta bị thuyết phục rồi tin là đúng. Tôi đã khiên cưỡng thực tế, thậm chí xuyên tạc thực tế, kể cả thực tế tâm lí để minh họa cho khái niệm. Tôi giải mã Gương Mặt Tình Yêu bằng vô số những gương mặt bạn gái thời tuổi nhỏ, những gương mặt thoáng gặp nào đó. Gương Mặt Tình Yêu còn hình thành trong tâm thức của con người do nhiều nhân tố, tổng hòa từ tình cảm yêu thương, kính mến, tôn thờ hoặc tình cảm căm ghét, khinh bỉ, phỉ báng. Ngoài những hình ảnh, kỉ niệm từ bao người bạn gái thời tuổi nhỏ, tuổi mới lớn, Gương Mặt Tình Yêu còn hình thành như sự kết tinh từ các nguồn khác. Huyền tượng tôn giáo, thần thoại, truyền thuyết, hình tượng văn chương, phim ảnh, báo chí, nhân vật lịch sử, hình ảnh những người kính mến cũng là các nguồn của tổng hòa đó.
Gương Mặt Tình Yêu là hình ảnh của mơ mộng, của khát vọng. Do đó, Gương Mặt Tình Yêu là vô thức, cũng là ý thức.
Nhưng tại sao một người có thể yêu nhiều dạng người khác nhau, và những dạng người này khác biệt nhau?
Nhỏ thân yêu,
Em là hình ảnh lí tưởng. Nhưng trong thực tế cuộc đời, khó có thể có sự trùng khít, giống hệt giữa người trong mộng và người yêu có thật. Người tình có thật mang nét này, nét nọ về diện mạo, tính cách chứ không thể gồm tất cả các nét của người trong mộng. Tình yêu đương càng mãnh liệt, lâu bền khi người tình thật và người tình mộng càng giống nhau. Và buồn thay, tình yêu đôi khi chỉ là sự nhân nhượng với chính mình, bởi con người không thể gặp người trong mộng ở ngoài đời. Cũng vì thế, người ta yêu Tình Yêu chứ chưa hẳn yêu người yêu. Tình Yêu mãi là một khát vọng không nguôi. Con người chỉ hạnh phúc khi gặp người tình mộng ở đời thực, hoặc biết lãng quên người tình mộng để chấp nhận người tình thực không hoàn toàn vừa ý. Ở đời, người ta chỉ đạt được Cái Tương Đối chứ không thể đạt được Cái Tuyệt Đối. Tuổi càng lớn, người ta dễ dàng hơn trong việc chấp nhận Cái Tương Đối.
Tình cảm của con người trước một đối tượng được xem như một nguồn là cả một phức hợp (có thể có mâu thuẫn tình cảm: vừa ghét vừa thương).
Nhỏ thân yêu,
Em là Gương Mặt tôi mãi tìm kiếm, và chắc chắn là một quá trình tìm kiếm vô vọng. Sự kiếm tìm này còn là ý tưởng xuất phát từ ẩn dụ của một truyền thuyết Phương Tây: ''Tình Yêu là sự tìm gặp một nửa bản thân mình đã mất'', để một lại được thành hai - hai của một.
Đấy là một cách nhìn về tình yêu bị lên án là khai quật các lớp trầm tích của vô thức bằng chiếc xẻng khái niệm mà cán xẻng là sự bịa đặt, xuyên tạc, tư biện, lưỡi xẻng là sự suy đồi.
Em yêu dấu,
Thế đấy, tôi đã hơi lạnh lùng định nghĩa về em!
Em là người tình mộng, là Gương Mặt Tình Yêu, là một Thượng Đế của Tôn Giáo Yêu Đương.
Em là Cái Đẹp của Tình Yêu trong tôi.
Em là Bổn Lai Diện Mục của trái tim tôi.
Đấy là một thứ Tình Yêu duy tâm chủ quan chăng?
Có phải tôi đã minh họa các khái niệm tâm lý học bằng các dẫn chứng thực tế đã khiên cưỡng, xuyên tạc, theo yêu cầu của khái niệm?
Đấy cũng có thể là khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa, là một sự chạy trốn hiện thực chiến tranh, một sự né tránh các loại búa rìu chuyên chế? Đấy là một cách thoát ly thực tại?
Với tôn giáo Tình Yêu Đương, hệ quả khá kỳ lạ xảy ra, ấy là tình yêu nam nữ vốn có cơ sở tình dục đã thăng hoa đến mức phi thực như một tình cảm tôn giáo thiêng liêng.
Sao bấy giờ tôi chỉ biết khát vọng Tình Yêu, không biết cách thoát li thực tại bằng ước mơ khoa học, bằng vẽ vời xã hội tương lai (chỉ ước mơ mùa xuân thanh bình vĩnh cửu trên đất nước)?
Tác hại của Tôn Giáo Yêu Đương ấy là sự vô vọng của quá trình tìm kiếm Gương Mặt Tình Yêu trong đời thực, thấy đời thực quá buồn tẻ, phàm tục đôi khi đến ghê tởm, do đó, khó sống.
Em thân yêu,
Như vậy em cũng là ma túy của tôi rồi đó!
Thế đấy, tôi đã hơi lạnh lùng khi định nghĩa về em.
Đôi khi tôi nghĩ là đã xúc phạm đến em bằng chính sự phân tích thô bạo. Em, Nàng Thơ của tôi năm mười tám tuổi!
CHƯƠNG BỐN
1
Khi mới nhận được xấp bản thảo của Niên, Cúc Tần bình thản đọc rồi vội vã đọc trong nỗi bàng hoàng. Mới đọc lướt và chỉ chú tâm vào các trang thư cuối mỗi chương, cô suýt qua nhà ba cô, điện thoại về cô Sông Phố ngay, để hỏi cho ra chuyện. Nhưng rồi Cúc Tần bình tâm trở lại. Cúc Tần không thể nôn nóng đến mức phải ''cấp cứu'' như vậy. Trong đầu cô, đèn ưu tiên màu đỏ và còi cho phép vượt mọi luật lệ giao thông ngỡ chừng đang xoáy tròn, inh ỏi. Trái tim cô rõ là rối nhịp. Mừng vui, ngạc nhiên, sung sướng, tự ái, hồi hộp, âu lo, hy vọng, ngượng ngùng, cùng một lúc ùa vào trái tim rất khỏe mạnh, đằm thắm của Cúc Tần, chỉ bởi xấp bản thảo đó. Xấp bản thảo đó đã đánh thức một kỉ niệm cũ. Kỉ niệm ấy có thể chẳng thành kỉ niệm của ai đó, dẫu họ có thể gặp một trường hợp tương tự. Với Cúc Tần, cô không thể quên được. Vấn đề là ở chỗ, bản thảo cũ đã được viết lại với rất nhiều sửa chữa, bổ sung, lược bớt, để tinh túy hơn, gọn và thật hơn.
Niên có phải là Phần ngày đó không?
Câu hỏi ấy như đèn cấp cứu xoáy đỏ, như còi cấp cứu inh ỏi! Nhưng cần phải đọc kĩ lại. Cúc Tần không muốn biến mình thành một cô bé cuống quíu, buồn cười đến hài hước. Và Cúc Tần đã đọc lại thật chậm một lần nữa, đọc hết các chương tự sự nào cô chỉ lướt qua.
Cúc Tần cũng đã đủ bình tâm để quyết định sẽ nói thật hết với Niên những điểm cô đã nói khác đi vì ngượng.
Sáng nay, cũng như các buổi sáng khác của hơn một tuần lễ mới trôi qua, Cúc Tần vừa mừng vừa buồn vì Niên đã không đến Lá Xanh. Nửa tháng rồi, cô chưa gặp lại anh!
Những nốt nhạc từ loa thùng nhưng cơ hồ từ đâu đó cứ rơi trên sân rợp bóng mát. Hoa khế thôi rụng rồi, có nhiều trái khế đã xanh mọng. Mùa khế năm nay có lẽ muộn hay sao ấy. Có thể mất mùa khế cũng nên. Cũng sắp phải chấm bài luận thi học kì hai, sắp hết năm học rồi!
Cúc Tần vẫn ngồi ở chỗ cô và Niên thường ngồi, lơ đãng xem lại giáo án, trong khi xấp bản thảo của Niên vẫn đặt bên cạnh.
Cúc Tần nghĩ, suốt hơn tuần lễ rồi Niên không đến Lá Xanh, có lẽ anh muốn dành thì giờ cho cô đọc và suy ngẫm, hay vì lí do nào nữa, cô không rõ.
Nếu Niên là Phần? Nếu Niên viết lại chuyện của Phần? Ngày xa xưa ấy, thuở mười ba tuổi, cả những năm tháng sau này nữa, cô đâu dám hỏi kỹ về Phần, bởi cô Sông Phố ở xa, tận Mỹ Tho, sau đó về Cần Thơ, và cũng do tính cô ấy nghiêm khắc.
Cúc Tần cứ lẩn quẩn trong suy nghĩ, hồi tưởng, nhưng cố dặn lòng phải giữ được sự bình tâm.
Trái tim cô khỏe mạnh, đằm thắm, nhưng có dị tật gì không nhỉ? Cúc Tần mỉm cười một mình. Cô bỗng thấy có chút nào đó thật không bình thường trong tâm hồn, tính cách của chính mình. Bé bỏng gì nữa đây, đã ba mươi hai tuổi rồi kia mà! Sao còn vớ vẩn, bâng quơ đến thế!
Cúc Tần cũng mừng cho sự điềm đạm cô thể hiện được trong thời gian gần đây.
2
Lần này, với xấp bản thảo đã được sao chụp lại, được đóng xén kĩ lưỡng, Cúc Tần qua thăm ba. Trong lúc chạy xe trên đường phố từ Tân Bình sang quận Ba, Cúc Tần thấy mắc cỡ khi nhớ cách đây chừng một tuần, cô cầm luôn xấp bản thảo đánh máy thô sơ của Niên với dự định sẽ nhờ ba đọc để xác minh xem, nhưng khi gần đến ngõ nhà của người anh cả, nơi ba đang ở, cô lại chạy xe qua đường khác, quay về nhà Bảo. Đêm ấy, có thể gió tạt vào mặt cô, lồng ngực cô chút gì dịu mát, giúp cô thấy mình vội vã, khôi hài quá. Bây giờ, cô đã nhờ chụp lại bản thảo thành hai bản sao rồi, ở một tiệm sao chụp trên đường đến trường. Với bản sao đẹp và rõ nét, lần này, Cúc Tần gõ cửa sau khi vói tay tự mở cổng, dắt xe vào mảnh sân hẹp.
Từ bàn làm việc trên lầu, ông Phước đã thấy bóng con gái từ khi cô mở cổng. Ông thong thả xuống cầu thang. Chân vừa chạm nền nhà, ông đã lên tiếng một cách vui vẻ:
- Cúc Tần đợi ba mở cửa phải không?
- Dạ - Cúc Tần thưa - Con định nhờ ba chút việc.
Hai cánh cửa mở ra. Một người đàn ông khoảng gần bảy mươi tuổi, dáng người cao gầy, tóc trắng, mặc bà ba, đón con gái với nụ cười:
- Có lẽ có gì vui lắm đây!
Khi ngồi xuống ghế ở phòng khách, phần trước tầng dưới, Cúc Tần rút ngay xấp bản thảo ra khỏi cặp.
- Thưa ba, có cái này ngộ lắm - Cúc Tần vói người đưa bằng hai tay - Ba đọc xem có giống xấp bản thảo, hồi năm bảy chín, cô Sông Phố mang từ Mỹ Tho lên không.
Ông Phước hơi ngẩn người:
- Bản thảo hồi cô Sông Phố phê phán, kiểm điểm tác giả phải không? - ông Phước nhíu mày, một tay bóp vào trán, cố nhớ lại.
Cúc Tần mừng thầm vì ông chưa quên. Cô nói như reo lên:
- Vậy ba còn nhớ rõ vụ ấy rồi! Ngộ lắm, ba à!
Ông Phước nói:
- Bản thảo ấy ba đang giữ đây mà! Mười chín năm, cũng nhanh thật!
Cúc Tần cố kìm lại nỗi ngạc nhiên đến suýt rụng rời:
- Bản thảo ấy ba còn giữ? Bản thảo viết tay hồi năm bảy chín ấy?
Ông Phước gật đầu:
- Mà sao? Chuyện gì xảy ra vậy? - ông Phước buột miệng, nhưng ông cũng đoán ra sự việc - Bộ xấp bản thảo viết tay với xấp giấy đánh máy chữ này là một? - ông lật giở bản sao chụp trên tay - Cũng ngộ quá đó! - ông nhìn cô con gái của mình, đợi cô đáp.
- Thưa ba, vậy con mới qua nhờ ba xem thử, xác minh lại coi ra sao - và Cúc Tần đề nghị ngay - Ba cho con mượn bản viết tay đó cũng được, ba hén!
- Nhưng con kể lại xem đã nào! Cúc Tần dạo này sao có vẻ nôn nả lắm đó nghen! - ông Phước mỉm cười.
Cúc Tần hơi mắc cỡ vì sự nhận xét của ba. Cô cố gắng giữ vẻ điềm nhiên kể lại việc một nhà văn cho cô mượn đọc, thăm dò ý kiến trước khi cho xuất bản, cùng những nghi vấn của cô.
Ông Phước lắng nghe, có vẻ đã bị lôi cuốn vào một việc ông cho là quá ngẫu nhiên và hơi bất ngờ.
- Theo ba biết, anh nhà giáo trẻ ấy đã chết vì bệnh tim ở bệnh viện Chợ Rẫy rồi, sau vụ phê phán của ông bí thư chi bộ, cô Sông Phố và một vài giáo viên trong tổ ngữ văn tiếng Việt khoảng một năm - ông Phước thấy Cúc Tần gật đầu, ông nói tiếp - Bản thảo vẫn còn ngay trên lầu, trong tủ sách của ba chớ đâu!
Cúc Tần nãy giờ vẫn thắc mắc điểm này. Cô thưa:
- Sao kì vậy ba? Con nhớ sau tết năm bảy chín, cô Sông Phố mang về lại, rồi nghe đâu cô lưu lại trong tủ hồ sơ của trường kia mà.
Ông Phước gật gật đầu:
- Đúng. Đúng vậy. Số là thế này, vụ đó, nghe cô Sông Phố kể lại với ba là, sau khi anh giáo trẻ ấy bỏ đi khỏi trường, cũng êm luôn. Ông bí thư, những người phê phán, trong đó có cô Sông Phố, đều rất ân hận. Ở thời điểm đó, vấn đề tư tưởng khá căng ở các cơ quan, trường học. Mục đích của việc phê phán là rút kinh nghiệm chung để cùng nhau học tập, giúp nhau cùng tiến bộ. Nói theo các cụm từ, các câu cửa miệng hồi đó là vậy - ông Phước ngừng lại, cười tủm tỉm - Ông bí thư vẫn thấy được vấn đề là không hệ trọng lắm, chỉ trong phạm vi tổ ngữ văn thôi. Bản thảo có lưu lại. Mọi người cố gắng tìm tung tích anh giáo nọ, nhưng hồi đó đài, báo thiếu mục nhắn tin. Người ta cũng hi vọng anh ta trở về trường lại, nhưng bặt tăm luôn. Đến khi cô Sông Phố xin chuyển về quê gốc là Cần Thơ, lúc bàn giao hồ sơ sổ sách, cổ thấy không cần bàn giao tập bản thảo ấy, vì dẫu sao cũng là kỉ vật riêng tư, thậm chí là chuyện đời riêng, nên cổ giữ lại, mong có dịp gặp người thân xa gần gì của anh giáo ấy một cách trực tiếp để giao lại, hoặc cổ giữ nó như kỉ niệm về sự cố quản lí trong đời công tác của cổ. Rồi năm tám sáu, tám bảy gì đó, cô Sông Phố lại mang lên đây để ba xem lại! - ông Phước kể một thôi dài, xem chừng khô miệng - Con tới tủ lạnh lấy chai nước lọc đi Cúc Tần!
Cúc Tần lắng nghe, chợt giật mình đáp ''dạ'', rồi bước tới tủ lạnh.
Ông Phước nhấp một ngụm nước.
- Cơ sự là vậy - ông nói tiếp - Vậy đó! Hoá ra hồi bảy chín con có đọc à?
Cúc Tần bẽn lẽn:
- Con có tò mò chút đỉnh mà ba!
- Năm tám bảy có đọc lại không? - ông Phước hỏi.
- Con đâu biết, thưa ba. Hồi đó con vào đại học rồi, ở thư viện suốt ngày, vả lại con đâu có ngờ. Con nghe cô Sông Phố bảo đã đốt rồi kia! Con tiếc lắm... Ba, bây giờ ba chịu khó lên lầu lục tìm bản viết tay cho con mượn nghen ba!
- Nhưng ba hỏi đã - ông Phước nhướng mày - Này, anh nhà văn cho con mượn tập bản thảo đánh máy này - ông chỉ tay trái vào xấp giấy trên tay phải - Ảnh tên gì, mấy tuổi?
- Dạ, Phan Cát Niên, khoảng bốn mươi hai! Tên khác với anh nhà giáo.
Ông Phước suy nghĩ:
- Tuổi đúng cỡ đó. Tên thì khác. Anh kia chết rồi mà! - ông khẽ bậm môi trên, và buột miệng - Aắ, anh Phan Cát Niên này ba có đọc.
- Đã xuất bản mười hai cuốn sách rồi đó ba.
- Đúng là ba có đọc. Cũng ngộ hén. Chắc là tin đồn bậy. Người còn sống sao giống người chết được!
- Ba lên lầu lấy cho con mượn tập kia đi ba - cô giục - Đồn bậy là cái chắc rồi, ba à. Vật trâu, trâu cũng chết, bệnh tim đâu mà bệnh tim!
Ông Phước bật cười và đứng dậy.
Lên lầu, Cúc Tần lục tìm cùng với ba. Cô run lên khi cầm được bản chép tay, giấy đã ố vàng, gáy hơi sờn.
Lật vài trang, cô muốn reo lên:
- Đúng rồi ba ơi! Nét chữ này là của ảnh hồi nhỏ đây. Chắc đúng rồi. Có lẽ đúng rồi đó.
- Vậy hả? - ông Phước nhìn Cúc Tần để đoán thêm sự việc - Vậy mà đồn ẩu người ta chết vì bệnh tim!
Ngẫm nghĩ một lúc lâu, ông nói trong khi Cúc Tần cắm cúi xem:
- Cúc Tần nè - Cúc Tần ngẩng mặt nghe ba nói tiếp - Sự việc ngẫu nhiên cũng li kì đấy - ông Phước mỉm cười - Thì vậy nghen, con lấy bản này về xem, bản hồi nãy để lại. Nhớ giữ kĩ. Cẩn thận thì đem đi sao chụp lại nguyên cỡ, rồi chỉ đọc bản sao, còn bản chính khóa kĩ. Việc thứ hai là nhờ cô Sông Phố nhận diện. Dễ ợt mà! Cũng gần hết năm học rồi, thế nào cổ cũng thu xếp lên thăm thằng Bảo với vợ con nó chớ.
Cúc Tần rất vui, khi không bỗng thành một điều tra viên. Cô còn cả một nửa kế hoạch trong đầu nữa chứ!
Khi cô dắt xe ra khỏi cổng, ông Phước lên lầu, đeo mắt kính ngồi vào bàn giấy đọc ngay.
Cúc Tần rời ngõ hẻm, ra đường phố, thấy người lẫn xe cộ sáng lên trong nắng Sài Gòn tháng năm, sáng hơn mọi ngày. Rõ là công việc điều tra, lần gỡ từng mối để tìm ra kết quả với đáp số nhiều bất ngờ cũng lắm thú vị. Hơn nữa, đây còn là kỉ niệm của cô, là chuyện của chính trái tim cô!
Cúc Tần tự kìm chế lòng mình bằng cách cố đi xe chậm thật chậm, chỉ bằng người đi xe đạp, một quãng đường khá dài, rồi mới chạy nhanh hơn để về nhà. Cô tự bảo, chiều nay trên đường đến trường, cô sẽ ghé tiệm sao chụp giấy tờ để sao thêm ba bản từ bản viết tay này.
Chẳng biết Niên nghĩ thế nào, khi hay cô bị tập bản thảo của anh bắt cô thức đêm, rồi dang nắng giữa lúc mặt trời gần đứng bóng?
Thôi, nghĩ ngợi xa xôi làm gì - Cúc Tần tự bảo. Cô chỉ muốn tìm về một kỉ niệm cũ. Kỉ niệm, cô cũng đang chắt chiu kỉ niệm! Có những kỉ niệm chỉ một mình mình biết và chỉ một mình mình nâng niu!
3
Buổi tối, Lá Xanh đông khách hơn ban ngày. Cúc Tần nhìn những nhóm bạn, những đôi tình nhân đang chuyện trò, tâm tình dưới ánh đèn màu trước sân nhà. Bóng đèn cao áp từ hẻm hắt vào màu sáng trắng, cách nhà khoảng hai mươi thước. Trụ đèn lom khom như một người cúi tìm những dấu chân kỉ niệm. Hình ảnh buồn quá, nếu không có một gương mặt rỡ ràng. Có lần, gương mặt ấy tắt câm, vì người thợ điện chưa kịp thay bóng, khiến Cúc Tần phải là người đầu tiên đến báo tổ dân phố, rồi trực tiếp điện thoại nhờ nhà đèn cử thợ đến. Cô cũng muốn giữ mãi gương mặt sáng ấy.
Thấy đã rảnh việc, Cúc Tần bấm số liên tỉnh. Chắc giờ này cô Sông Phố đang viết báo cáo tổng kết năm học.
- Tôi nghe đây.
- Cháu đây, cô ơi. Cúc Tần ở Sài Gòn đây cô à.
Giọng cô Sông Phố vui hẳn lên:
- Cô có điện lên cháu từ mấy hôm trước, nhưng chỉ gặp Hòa Bình. Hòa Bình bảo cháu đi chợ. Nó có nói lại những gì cô dặn không? Thật bất ngờ quá. Cô mừng quá. Ân hận lâu nay...
- Dạ, cô ơi, Hòa Bình có nói lại. Cháu cũng... mừng. Ngộ quá cô hén?
- Ờ, thấy rõ nhé, rõ là ''quả đất tròn...'', thế nào cũng có lúc gặp lại nhau. Cô đọc cả hai xấp bản thảo hai loại, viết tay và đánh máy, từ mấy hôm trước. Hình Phan Cát Niên ở bìa bốn cuốn tiểu thuyết có nhan đề gì đó, '' Miền Cát, Quê Nhà'', Cúc Tần gửi về cho cô đó, đúng là Nguyễn Văn Phần rồi. Chắc chắn mười mươi. Có già hơn, nhưng vẫn khuôn mặt ấy. _a, còn hai tập bản thảo đó, chỉ là một thôi, dù sửa chữa lại thì vẫn chuyện ấy, nhân vật ấy, vùng đất ấy, tư tưởng ấy. Có điều, cái nhìn sáng hơn, tốt hơn...
Cúc Tần cười qua dây nói:
- Thưa cô, chắc chắn là đúng chứ? Cô ơi...
- Con nhỏ này! Đã nói đúng mà - cô Sông Phố cũng cười - Nhưng có chuyện gì về... tình cảm không?
Cúc Tần vờ không nghe câu hỏi:
- Nước da anh Nguyễn Văn Phần hồi đó cũng ngăm ngăm đen chứ cô?
- Con nhỏ này! Đúng, đen thui, không cao không thấp.
- Vậy đúng rồi đó cô.
- Hồi đó, nghe đâu chết vì bệnh tim rồi. Hóa ra là đồn nhảm! Cô cũng mừng lắm. Cho cô gửi lời thăm nhen. Tổ chức cho khối mười hai thi tú tài xong, cô lên Sài Gòn ngay. Mà này, cưng ơi, cô hỏi thiệt, Phần nó có vợ con gì chưa?... Thế nào...
Cúc Tần đã chuẩn bị từ lâu câu trả lời, từ độ mới quen Niên, nhưng cô vẫn thấy có gì vướng víu để nói.
- Dạ, cô ơi, cháu chỉ là bạn với ảnh thôi mà. Tình cờ đọc bản thảo, nhớ chuyện hồi đó, như trong thư cháu viết để cô rõ, chứ có gì đâu cô! - Cúc Tần cố giữ vẻ điềm nhiên. Thật lòng, chạm đến điểm này, trái tim cô như nhói lên.
Giọng cô Sông Phố bỗng buồn hẳn:
- Ờ, thì vậy... Cô chỉ áy náy, hồi ấy, dẫu là hơi quá ''nhiệt tính'', hơi cứng nhắc, nhưng chuyện đã rồi. Cô cũng mừng là Phần nó có nhìn lại với cái nhìn đúng đắn hơn. Mà cũng không phải vậy. Từ sau bảy lăm, nó thật sự đổi đời rồi. Cô có xem hồ sơ ở phòng tổ chức Sở Giáo Dục... Phần nó dạy tốt lắm... Yằ cô muốn nói là nay Phần nhìn lại cái thuở mười tám tuổi, trước bảy lăm kia. Nhưng mà nè, Cúc Tần ơi, dẫu sao cô với ông bí thư chi bộ hồi đó cũng thô bạo quá đáng, ''tả'' quá đáng. Đúng là dùng búa để rèn, để gõ trái tim người! Gặp Phần - giọng cô hơi nghẹn ngào - cho cô gửi lời xin lỗi nhé. Đúng là cô ''nhiệt tính'' quá, nóng quá, nóng vội quá.
Cúc Tần cười:
- Thôi mà cô! Chuyện đã rồi nhưng xem ra đều tự nhìn lại cả rồi.
- Ừ, vậy nhé. Thôi, hôm nào cô lên, sẽ nói chuyện nhiều. Nói với Hòa Bình, cô nhớ Cảo Thơm lắm đó nghen. Hủ mắm sặt chú Tính mang lên, ăn có ngon không? Định gửi sầu riêng nữa, nhưng nặng quá.
- Dạ, ngon, cô à - Cúc Tần cười thành tiếng.
- Thôi, ngừng máy nghe cưng. Nãy giờ cũng bộn rồi đa!
Cúc Tần gác ống nói với nụ cười.
Thế là không còn nghi ngờ gì nữa, Niên chính là Phần, một Phần chưa hề đau tim bao giờ, và vẫn còn sống khỏe. Những gì mới thưa chuyện, nghe chuyện, Cúc Tần đã nghe Hòa Bình nói lại với niềm ngạc nhiên rất đỗi của Hòa Bình. Biết vậy, nhưng Cúc Tần vẫn muốn nghe trực tiếp từ cô Sông Phố. Cô vui với niềm vui của chính cô, với niềm vui của cô ruột mình. Cúc Tần cũng cảm nhận hết nỗi buồn của niềm vui đó trong tâm hồn mình, những muốn khóc. Nhưng khóc làm gì. Cúc Tần bỗng trở lại với nỗi hụt hẫng của một tình yêu biết trước là vô vọng. Trái tim trong ngực này khỏe mạnh, đằm thắm là thế, đã từ lâu có dị tật bất thường chăng? - Cúc Tần bỗng rơi vào trống vắng.
Từ quầy cà phê, Cúc Tần nhìn trụ đèn lom khom cúi tìm dấu chân kỉ niệm với gương mặt rỡ ràng như vầng trăng. Kỉ niệm, kỉ niệm, để làm gì cơ chứ! Chắt chiu kỉ niệm cũng là một thứ ước lệ của tình cảm con người?!
Cúc Tần cảm thấy không có lối thoát nào cả. ''Hồn bướm mơ tiên'' chỉ là ảo tưởng hy vọng của tuyệt vọng. Lối thoát duy nhất chỉ là lãng quên như chưa hề biết nhau, yêu nhau!
Kỉ niệm tuổi mười ba, đến năm cô ba mươi hai tuổi, cũng chỉ vô vọng vậy thôi! - Cúc Tần cười buồn một mình.
Dưới ánh đèn màu đủ sáng để mọi người nhìn rõ mặt nhau, những nhóm quen thân, dăm đôi bạn tình chuyện trò, rôm rả, thầm thì. Có ai mười năm sau sẽ là trụ đèn cúi tìm kỉ niệm của nhau ở Lá Xanh này?
4
Gần một tháng nay, Niên không viết tiếp cuốn tiểu thuyết mới nữa. Từ bốn giờ sáng, Niên đã gõ bàn máy chữ. Anh bưng bàn đánh máy cũ kĩ với xấp bản thảo xuống chỗ bán sách cũ, cắm cúi vừa chữa vừa gõ, tránh để tiếng ồn lóc cóc đánh động giấc ngủ vào lúc ngon nhất của vợ con. Niên đang hết mình với hai phần kế ''Những Mùa Thơ Dại'' để đưa Cúc Tần xem tiếp. Anh vẫn cho nhân vật hư cấu của anh tiếp tục ''thơ dại'' đến năm ba mươi sáu tuổi. Có thể đến khi Cúc Tần hoàn tất đợt thi học kì hai, tổng kết năm học, anh cũng hoàn tất bản thảo.
Gần một tháng nay, miệt mài làm việc suốt ngày, chỉ thi thoảng ghé chỗ bạn bè văn nghệ hay ngồi tán dóc, Niên buồn lắm. Anh rất nhớ Lá Xanh, nhưng vẫn cố gắng không đến đó nữa. Anh phải quên bẵng đi một thời gian Thiên Đường Cúc Tần của anh. Niên thấy cần phải tỉnh lại, cần phải tìm ra một lối thoát cho Cúc Tần và chính anh, cả Bông Trang và Ca Dao nữa. Đã không yêu nhau thì thôi, đã yêu nhau rồi, trở về với tình bạn, rõ là một đau đớn. Đau đớn đến mức nào, anh cũng có thể gánh chịu nổi, nhưng liệu Cúc Tần có dẫn chính bản thân cô đi đến cái kết thúc của các tác phẩm, cổ điển về văn chương, với đề tài hôm nào ở Tre Xanh bên Thanh Đa, cô đã nhắc tới. Anh sợ hãi cái kết thúc đó. Thật ra, ít có cái chết tự vẫn nào chỉ thuần là tự vẫn cả. Phải có tác nhân nào xô đẩy người ta đến chỗ tự vẫn. Niên không muốn anh là một tác nhân đau đớn như vậy. Không phải anh không tin vào bản lĩnh của Cúc Tần. Biết đâu! Muôn một vẫn là tỉ lệ đáng âu lo. Yêu Cúc Tần đến thế, thương Cúc Tần đến thế, anh nỡ nào dắt tay cô dấn tới...
Nhiều lúc, gõ những phím chữ như cái máy, rồi rã rời ngồi trầm tưởng một mình, anh ngỡ anh là thằng ngốc. Ở đời, làm gì có những nẻo đường tuyệt đối không thể gây ra những nguy cơ, không thể gây nên cảm giác đe dọa của rủi may. Nẻo đường tình yêu đương làm sao tuyệt đối bằng phẳng. Có những gai góc, có bao trở lực, có nhiều khúc khuỷu thì phải có nghị lực, sức mạnh trái tim và óc khôn khéo để vượt qua.
Hai trái tim người tình, với nhau chỉ là bạn?
Lãng quên trong cách xa nhau mãi mãi?
Mặc kệ tất cả, nắm lấy tay nhau, cùng nhau bước tới?
Nghĩa có luật của nghĩa, tình có luật của tình?
Có chọn lựa nào không cam đành mất mát? Cái được này thường kèm theo cái mất kia!
Số phận là gì? Là tính cách của anh? Là hoàn cảnh chung và riêng? Là ngẫu nhiên của tất yếu? Là ngẫu nhiên của ngẫu nhiên? Là sự chọn lựa của anh? Là sự xô đẩy của tác nhân vốn là ai đó?
Số phận đặt Niên đứng trước một ngã ba đường quá xưa cũ với những câu hỏi xưa cũ. Nhưng chưa có một giải đáp nào...
Gần một tháng nay, sau đêm rằm ở Tre Xanh, sau buổi sáng nhờ Hòa Bình trao lại Cúc Tần xấp bản thảo với bức thư hí hoáy viết tại chỗ, Niên thấy phải có khoảng cách để chính Cúc Tần cũng phải nghĩ suy chín chắn. Cái chính là suy nghĩ về mối quan hệ giữa anh với cô. Và cũng vì một lẽ khác nữa: Điệp đã đến nhà thăm vợ chồng anh với món quà nhỏ cho Ca Dao.
5
Buổi chiều hôm đó, ngồi sau những kệ sách báo cũ, Niên tìm trong đầu một chi tiết để thay một chi tiết anh cho là chưa đắc địa trong phần tiểu thuyết đang tự đánh máy. Bông Trang đang chuẩn bị bữa tối bên cạnh Ca Dao đang ê a bài thơ học thuộc lòng. Bông Trang vừa nhặt rau vừa nhắc cho Ca Dao, dưới ánh đèn ống trắng.
Điệp dựng xe trước cửa tiệm, bước vào. Niên nhìn Điệp nhưng cứ ngỡ đấy là một người khách cần dăm số báo hoặc ít cuốn sách cũ. Anh chỉ cười xã giao một cách máy móc vì đầu mải rối với chi tiết truyện.
- Anh Niên! Quên nhau rồi sao?
Niên bước vội đến trước Điệp:
- Thật bất ngờ. Đang đãng trí một chút. Xin lỗi anh Điệp nhé - Niên kéo một chiếc ghế, đẩy khẽ đến bên #iệp - Mình cùng nhau ngồi tạm ở đây.
Điệp tỏ vẻ thân mật:
- Anh Niên trông hơi gầy, có vẻ phờ phạc. Chắc đang viết đến chương gay cấn?
Niên cười xòa, tay xoa xoa râu cằm đã lú ra vài chân bạc chưa cạo.
- Anh khám bệnh bằng mắt quá siêu rồi đấy - Niên nói trong tiếng cười.
Điệp rút từ túi xách ra một hộp bút:
- Cháu bé có ở nhà chứ anh Niên? Tôi vừa từ bệnh viện ghé về đây, hi vọng giờ này có cháu ở nhà.
Niên quay mặt lui về phía sau, gọi Ca Dao. Ca Dao chạy lên, vòng tay chào.
- Đây là chú Điệp, bác sĩ - Niên giới thiệu.
- Cháu chào chú Điệp ạ - Ca Dao lại vòng tay, cúi đầu.
Điệp xoa đầu Ca Dao:
- Ngoan và xinh quá. Chắc lớn lên cũng làm nhà văn chứ Ca Dao? - Điệp tặng Ca Dao hộp bút, cô bé lại vòng tay cảm ơn, rồi ra nhà sau với mẹ.
Hai người đàn ông chuyện trò về sách báo và thuốc thang. Hồi lâu, Niên chợt nhớ, anh nhờ Điệp trông hàng giúp, lên gác mang xuống hai cuốn sách anh mới xuất bản gần đây nhất. Điệp nói trong khi Niên kí tặng:
- Tiểu thuyết và truyện ngắn anh viết tôi thích lắm. Hôm nào mang cả mấy cuốn tôi có ở nhà đến đây để có chữ kí tác giả.
Niên trao hai tập truyện ngắn:
- Chẳng biết hay dở thế nào. Xin tùy người đọc. Có được một người đọc là anh Điệp, tôi vui lắm.
Niên ngừng lại, rồi nói ngay:
- Anh Điệp, nếu có thể, chúng mình kiếm cái quán nào đó lai rai vài chai bia chơi?
Điệp cười:
- Vâng. Cũng vui. Tôi chở anh nhé.
Niên quay ra nhà sau, nói với vợ. Khi Bông Trang lên cửa hàng, Niên giới thiệu cả hai người. Điệp gật đầu chào, suýt buột miệng nhận người quen. Điệp kịp kìm lại. Chỉ trong một thoáng. Lúc Niên cúi xuống dặn con gái nhớ học bài, cử chỉ của Điệp Niên không thấy.
Sau vài câu giao tiếp bình thường, Điệp khởi động xe gắn máy. Hai người ra hết ngõ hẻm đến mặt đường, Bông Trang vẫn nhìn theo ngơ ngác về cử chỉ của Điệp. Bông Trang lục tìm trong trí nhớ với đôi chân mày nhíu lại.
Điệp và Niên đã cạn mấy li đầy bia. Từ khi có bia vào, Điệp bỗng tối hẳn gương mặt. Thỉnh thoảng, Điệp lén nhìn người đàn ông ngăm ngăm đen, đôi mắt to, thăm thẳm như lai Chăm hoặc Đn. Aằnh sáng đèn hẻm hắt xuống đủ soi thấy một mái tóc ngắn đen mượt loáng thoáng dăm sợi bạc. Niên đó, kẻ mà Cúc Tần đã mềm lòng, chừng như đã da diết yêu, đang ngồi trước mặt anh. Điệp thấy đau và buồn.
Lúc này, men bia cũng ngấm vào máu Niên. Niên bỗng chưa bao giờ ngấm hơn nỗi cách quãng giữa anh với Cúc Tần. Nỗi buồn của người vô tình, ngẫu nhiên chiến thắng cũng ngấm trong Niên. Niên ý thức anh thắng Điệp nhưng đồng thời cũng ý thức anh là người đầu tiên phải rút khỏi tình huống trớ trêu này. Xưa nay, qua vài cuộc tình, Niên chưa hề muốn đánh bại ai để cướp đoạt người yêu. Phân rẽ hai người yêu nhau với Niên là việc nhẫn tâm. Làm nhà văn, Niên hiểu nỗi đau thế nào... Lẽ khác, anh không tin cô gái dám phụ tình cũ để yêu người khác là tốt, nữa là người khác chính là người đánh bại người tình cũ của mình! Cô gái ấy sẽ ''có mới nới cũ'' một cách độc ác, không thể nói chuyện thủy chung. Nhưng đời bao giờ cũng có trường hợp muôn một.
Trường hợp của Niên và Cúc Tần lại khác, nằm ngoài cả cái muôn một kia. Niên đến với Cúc Tần lúc Cúc Tần đã dứt khoát hẳn với Điệp, bằng sự từ hôn dứt khoát đã được một năm. Niên không chịu trách nhiệm về nỗi đau của Điệp. Nói cho đúng, trong cuộc này, Điệp thất bại vì chính Điệp, và vì Cúc Tần nhận ra cô không yêu được Điệp, chứ chẳng tại Niên. Niên biết mình chả là gì cả.
Điệp cũng hiểu điều đó. Mắt Điệp lóe lên trong cái nhìn vào li bia. Cái nhìn của nỗi hận không biết đặt vào đâu.
- Tôi hận lắm anh Niên à - Điệp bỗng thốt ra điều anh không muốn nói với ai, nữa là Niên.
Niên run khẽ ngón tay út khi bưng li bia.
Chần chừ một lúc, Niên biết Điệp hiền lành, chẳng muốn làm nhục anh ở đây đâu. Trong một thoáng, anh suýt hối tiếc đã ngồi với Điệp ở một quán cóc với bia rượu thế này, hơn nữa, lại quá gần nhà anh. Nếu Điệp làm nhục anh tại đây, dẫu nhẹ nhàng thôi, Bông Trang cũng có thể hiểu hết mọi chuyện. Xóm này, nhiều người biết vợ chồng anh lắm. Nhưng trực cảm bảo anh hãy yên tâm dẫu Điệp mới thốt ra chữ mà Niên gờm nhất: Hận!
- Mình đi chỗ khác ngồi, anh Điệp nhé - Niên nói.
- Thôi, lỡ rồi, ngồi đâu cũng vậy - Điệp vẫn cúi đầu, mắt nhướng lên nhìn Niên. Tia vằn đỏ trong mắt Điệp như giận dữ? như chực khóc? Niên vẫn cố tự nhiên.
Bàn tay Điệp chầm chậm đưa ra. Niên để yên xem thử. Điệp nắm vào bàn tay Niên bằng cái nắm nhẹ.
Niên thấy yên tâm hơn một chút, sau phút căng thẳng.
- Hận gì, anh Điệp? - Niên quyết định phải làm rõ với nhau, lúc này.
Niên thấy Điệp rút tay lại, nói khẽ:
- Tôi tự hận tôi, anh Niên à.
Niên xấu hổ vì cảm giác nhẹ nhõm trong anh:
- Là sao? Anh Điệp, chúng mình có thể nói với nhau. Giữa tôi với Lá Xanh - Niên nói rất nhỏ - thật đâu có gì - lại nói rõ tiếng hơn - Thật ra đâu có gì.
- Giữa tôi với nơi đó cũng hết lâu rồi. Gần ba năm rồi. Trước đó chưa có gì đậm tình. Sau đó, là nỗi đau, tôi không kìm chế nổi sự bắt buộc phải bộc lộ nỗi đau đó! - Điệp thở hắt ra một cách cay đắng - Thế mới biết cuộc đời và trái tim người!
Điệp uống sạch li bia:
- Đủ rồi! Anh Niên, anh may mắn đó - Điệp chợt nhớ lại Bông Trang - Hãy giải quyết lấy phần còn lại của mình. Đừng để cứ mãi sống trong dằn vặt. Tôi cũng vậy.
Niên chưa thật hiểu Điệp nói gì, vì anh không ngờ Điệp lại nói thế. Tính Niên vẫn muốn thật rốt ráo bởi anh sợ ngộ nhận.
- Anh nói rõ đi, anh Điệp! Có gì đâu...
- Đủ rồi! Anh là nhà văn. Tôi đâu phải bác sĩ tâm lí. Tôi thuộc khoa ngoại mà. Chúng ta về nhé.
Ngồi sau lưng Điệp, Niên nói:
- Tôi vẫn muốn anh nói rõ hơn, anh Điệp à.
- Anh tầm thường thế - Điệp bực mình, phanh xe trước ngõ - Anh xuống đây cũng được. Tôi nói anh may mắn. Hãy tiến bước, nếu anh thấy tiến bước với Cúc Tần là tốt.
Niên cau mặt. Anh cảm thấy khó chịu trước Điệp.
Điệp lao vút xe đi trong bóng đêm đã xuống, ánh đèn phố xá đã bừng sáng. Niên nhìn theo, cúi đầu bước vào nhà. Cả hai người chỉ có bia và ít con sò huyết trong bụng. Niên nghe ngà ngà say, bước chân cơ hồ chông chênh, lảo đảo. Anh chợt lo ngại cho Điệp. Với tâm trạng ấy, với nồng độ men ấy, liệu Điệp có an toàn về đến nhà không, trong chiều thứ bảy đã sụp tối, lượng xe cộ đông hơn mọi đêm.
Nửa giờ sau, uống thêm đã gần hai ca lớn nước sôi nguội, Niên ngồi trước máy điện thoại. Trên tay Niên, tấm danh thiếp của Điệp.
- Vui lòng cho tôi gặp bác sĩ Điệp.
- Anh Điệp chưa về đến nhà - một giọng nữ, có lẽ em gái Điệp trả lời.
Niên chỉ biết nói ''cảm ơn'' một cách máy móc, gác ống nói. Niên đâm ra lo lắng, tự trách mình sao chỉ mời uống bia không thôi vào giờ cần phải lót lòng trước đã. Niên thầm kính trọng sự cao thượng, thái độ minh bạch của Điệp. Tuy nhiên, cảm giác khó chịu về câu nói cuối của Điệp lúc chia tay vẫn váng vất trong đầu anh. Chẳng lẽ Điệp không hiểu con đường của nhà văn, dù đi với ai, cũng chỉ là con đường lẻ loi một mình? Hai mươi bảy năm nay, chưa có Cúc Tần, chẳng lẽ anh không viết được mẩu truyện nào? Niên mỉm cười với chút tự ái xằng bậy, vớ vẩn của mình. Không. Phải chăng, anh chỉ có thể nắm tay chỉ một người duy nhất là Cúc Tần, trên con đường Tình Yêu Đương - Hạnh Phúc Gia Đình?
Dưới ánh đèn, anh chợt soi vào chiếc gương tay của Bông Trang: Một gương mặt nâu đen phờ phạc, tóc đã điểm dăm sợi bạc, chân râu cũng lú lên vài chấm trắng. Hai tiếng ''già rồi'' suýt thốt ra trên đôi môi anh run run, mấp máy.
Thế là gần một tháng rồi, Niên không đến với Lá Xanh nữa. Niên chẳng biết có kết thúc nào cho tâm trạng mâu thuẫn của Cúc Tần, Điệp và anh, để mở ra một trời Hạnh Phúc, thay vì dằn vặt, trăn trở. Cúc Tần có hiểu cho anh không?
XIN XEM TIẾP PHẦN THỨ HAI
http://www.tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com